Chúa Nhật XXXII - TN – B
Bà góa nghèo… tỷ phú của Chúa!
Petrus.tran
Ngày
30/04/2015 vừa qua, tờ USA TODAY có đăng tải một bài viết với tiêu đề
“Homeless person donates priceless gift to church – một người vô gia cư
dâng hiến một món quà vô giá cho nhà thờ”.
Bài
viết cho biết, anh ta đã dâng hiến chỉ với 18 cents cùng một lời ghi
chú giản dị trên một mảnh giấy nhỏ như sau: “Please don't be mad I don't
have much. I'm homeless. God bless.” (tạm dịch: Vui lòng đừng giận, tôi
không có nhiều. Tôi là người vô gia cư. Xin Chúa ban phước lành).
Nói
tới dâng hiến, có lẽ ai trong chúng ta cũng đều biết, đó là một hành vi
biểu lộ lòng tôn kính và biết ơn của con người đối với Thượng Đế. Việc
dâng cúng đã có từ thời tạo thiên lập địa.
Thuở
đó, con người thường dùng “hoa trái đầu mùa” như là lễ vật dâng lên
Thượng Đế. Để biểu lộ lòng tôn kính và biết ơn, họ chỉ cần dâng cúng
“con đầu lòng của bầy chiên” thì cũng đủ để được “Đức Chúa đoái nhìn”
(St 4, 4)
Vào
thời Cựu Ước, thời được gọi là đại pháp luật, luật pháp quy định, mọi
con dân Do Thái phải dâng một phần mười về mọi thu nhập của mình. Sách
Lê-vi ghi rằng: “Mọi thuế thập phân đánh vào đất, trích từ sản phẩm của
đất và từ hoa trái của cây cối, đều thuộc về Đức Chúa” (Lv 27, 30)
Đáng
tiếc thay! Theo thời gian, con người đã có cái nhìn phàm tục về sự dâng
hiến. Một số người nghĩ rằng, dâng hiến như là một sự “hối lộ” Thượng
đế, càng dâng hiến nhiều, thì càng chứng tỏ lòng hảo tâm cao, và rồi họ
cho rằng, những người khá giả, giàu có, dễ dàng thực hiện việc dâng hiến
hơn những người thiếu thốn nghèo khó.
Trở
lại câu chuyện người “vô gia cư” nêu trên. Theo bạn, việc dâng hiến của
người đó, có được “Đức Chúa đoái nhìn”? Thưa, chắc chắn là được. Được,
là bởi, chính Đức Giê-su khi còn tại thế, Ngài đã hoan nghênh cách dâng
hiến này.
Thật
vậy, câu chuyện “Tiền dâng cúng của bà góa” được ghi lại trong Tin Mừng
Mác-cô, nói rõ quan điểm của Ngài về sự dâng hiến. (x.Mc 12, 38-44)
Câu
chuyện đó đã được ghi lại như sau: Giêrusalem hôm đó, hôm có sự hiện
diện của Đức Giêsu, như một ngày lễ hội. Ngoài đường phố là những khuôn
mặt hợm hĩnh của các ông kinh sư “xúng xính trong bộ áo thụng”. Các ông
dạo qua dạo lại mong được người ta chào hỏi. Còn bên trong Đền Thờ là
một dòng người đang tiến về thùng tiền dâng cúng.
Trong dòng người đó, có một người phụ nữ. Người phụ nữ đó được mô tả là “một bà góa nghèo”.
Israel
thời đó là một xã hội phân chia giai cấp rõ rệt. Những người bị bệnh
truyền nhiễm như phong hủi, những người tật nguyền, các bà góa… tất cả
đều bị gạt ra bên lề xã hội.
Phụ
nữ khi kết hôn phải chấm dứt liên hệ với gia đình ruột thịt. Điều tệ
hại là nếu chồng chết cũng là lúc mất hết mọi quyền lợi vật chất từ nhà
chồng.
Bà
góa nghèo hôm đó, phải chăng vì đã “mất hết mọi quyền lợi vật chất” của
mình nên đã “lên Đền thờ” để cầu xin điều gì đó từ Thiên Chúa?
Thưa,
không thấy thánh sử Mác-cô nhắc đến. Chỉ thấy ngài ghi lại rằng: Bà ta
đã không diện đối diện “trước nhan Đức Chúa tay không” nhưng với của lễ
là “hai đồng tiền kẽm”…
Từng
bước, từng bước bà ta tiến đến thùng tiền, nơi luôn có những vị “cảnh
sát tôn giáo” hiện diện canh chừng. Đây là thùng tiền dâng cúng cho Đền
thờ. Và rồi, không một chút ngập ngừng, bà ta “bỏ vào đó hai đồng tiền
kẽm” một cách hân hoan vui vẻ theo đúng khả năng bà ta có. Rồi bà ta vội
vã đi ra.
Bà
ta đâu có biết, Đức Giêsu, lúc đó, đang “ngồi đối diện với thùng tiền
dâng cúng” và sau khi “quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”,
Ngài kết luận rằng, “bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”.
**
Có nghịch lý không khi Đức Giê-su nói: “Bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”, trong khi đó, còn “có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền”?
Có nghịch lý không khi Đức Giê-su nói: “Bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”, trong khi đó, còn “có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền”?
Thưa
không, Mẹ Têrêsa Calcutta có nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu
là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.
Bà
góa nghèo, như lời Đức Giê-su nhận định, đã “rút từ cái túng thiếu của
mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống
mình”, thì quả đúng là một-mất-mát-hy-sinh-lớn đối với bà ta.
Để
hiểu được điều này, hãy nhớ lại cái biến cố 30/04/1975. Có ai trong
chúng ta mà không trải qua giai đoạn, trong nhà chỉ còn hai-lon-gạo, là
tất cả những gì để nuôi sống mình! Và có ai trong chúng ta “dám” đem một
lon gạo cho một ai đó, vào thời điểm đó, đang quằn quại trong đói khổ!
Thế
nên, thật phải đạo khi Đức Giê-su nhận định, dù chỉ dâng có “hai đồng
tiền kẽm” cũng kể như bà ta đã “bỏ vào thùng nhiều nhất”.
Này
nhé, đừng nghĩ những suy tư sau đây là một sự ngụy biện. Hãy tưởng
tượng xem, nếu đem “hai đồng tiền kẽm” này, gửi ngân hàng, kỳ hạn một
năm, với lãi xuất là 6,80%. Điều gì sẽ xảy ra, “sau hai ngàn năm”? Vâng,
“bèo” lắm cũng phải thu về vài nghìn tỷ “đô” …
Nhìn
vào góc độ khác, góc độ “thuộc linh”, sự dâng hiến của bà góa này còn
tạo ra một hiệu ứng dây chuyền rất ấn tượng. Thật vậy, hơn hai ngàn năm
đã trôi qua, kể từ khi bà ta “bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm”, có biết bao
nhiêu Ki-tô hữu nghèo trên khắp thế giới, (mà người nghèo bao giờ cũng
nhiều hơn người giàu), sau khi nghe bài Tin Mừng này, có phần chắc, họ
đã có cảm hứng cho việc “dâng hiến”, dâng hiến một cách đơn sơ, chân
thành.
Ai… ai có thể tính ra được số tiền đó, do cả tỷ người nghèo dâng hiến, sau hơn hai ngàn năm, là bao nhiêu?
Vậy, hôm nay, nên chăng, gọi bà góa này là “tỷ phú của Chúa”?
***
Là một Ki-tô hữu, bạn có muốn là “Tỷ phú của Chúa”? Nếu muốn, đừng bao giờ nghĩ rằng, đợi đến khi có của ăn của để, chúng ta mới thực hiện sự dâng hiến cho Thiên Chúa.
Là một Ki-tô hữu, bạn có muốn là “Tỷ phú của Chúa”? Nếu muốn, đừng bao giờ nghĩ rằng, đợi đến khi có của ăn của để, chúng ta mới thực hiện sự dâng hiến cho Thiên Chúa.
Câu
chuyện sau đây, tuy đã cũ, thiết tưởng cũng cho chúng ta nhìn ra chân
lý đó. Chuyện là thế này: Có một chàng thanh niên đến thăm Mẹ Têrêsa
Calcutta. Sau khi chứng kiến những việc Mẹ cùng các cộng sự làm, chàng
ta xúc động và nói “Thưa Mẹ, con có thể cộng tác vào công việc của Mẹ
bằng cách nào? Mẹ Têrêsa từ tốn trả lời rằng “Chỉ cần cố gắng mỉm cười
với người khác, vậy thôi”.
Vấn đề, không phải là dâng ít hay nhiều. Điều quan trọng, đó là dâng hiến với sự tự nguyện trong tâm tình hy sinh.
Thì
đây, khi nói tới việc dâng hiến, Đức Giê-su đã chẳng từng nói: “Ai cho
anh em một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki-tô, thì Thầy bảo thật
anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng”, đó sao!.
Chỉ
là “một chén nước”, tất nhiên, nó không phải là chén nước mang hương vị
Coca, Pepsi hoặc Trà xanh không độ, nào đó. Chén nước đó phải là chén
nước mang hương vị “bác ái, nhân hậu, từ tâm, hiền hòa, trung tín, nhẫn
nhục” v.v…
Hãy
tưởng tượng, mỗi ngày, ta rót cho người bạn đời của mình một chén nước
mang một trong những hương-vị nêu trên, điều gì sẽ xảy ra? Thưa, điều sẽ
xảy ra, đó là: gia đình chúng ta tuy là một gia-đình-nhỏ nhưng nó sẽ là
một “đại dương của hạnh phúc”, đúng không, thưa quý vị!
Hãy
tưởng tượng, mỗi ngày, ta rót cho một người hàng xóm nào đó bên ta, một
chén nước, mang một trong những hương-vị nêu trên, điều gì sẽ xảy ra?
Thưa, có phần chắc, nơi ta ở sẽ là một thiên đàng láng giềng thân thiết.
Trở
lại chuyện “dâng hiến”. Vâng, chúng ta tiến thân trong nghề nghiệp nhờ
những mảnh bằng cấp. Vậy, sao chúng ta lại không xem việc dâng hiến như
là một tấm bằng để tiến thân nơi “công sở Nước Trời”!
Thánh
Phaolô đã nói “Hãy chú ý làm trổi hơn việc nhân đức dâng hiến này”
(2Cor). Đừng quên, khi dâng hiến “Đức Chúa là Đấng thưởng công, sẽ trả
lại cho con gấp bảy lần” (Hc 35, 10).
Vâng, Ngài sẽ trả công, và sự trả công tuyệt vời nhất, đó là chúng ta được đứng trong hàng ngũ những “Tỷ phú của Chúa”.
Petrus.tran
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét