Thứ Ba, 24 tháng 9, 2019

Hãy kiên nhẫn chờ đợi Chúa.


Chúa Nhật XIX – TN – C

Hãy kiên nhẫn chờ đợi Chúa.

“Có những bất ngờ làm con ngất ngây. Có những bất ngờ làm con xót xa. Chúa đến bất ngờ con sẽ ra sao? Con lao đao hay niềm vui dạt dào, con khổ đau hay tình yêu dâng trào?”.

Vâng, những dòng chữ nêu trên là một phần trích đoạn của bài thánh ca mang tên “tỉnh thức và cầu nguyện” và tác giả là Lm. Thái Nguyên.

Khi nói đến tỉnh thức và cầu nguyện, có thể nói rằng, đó chính là hành trang không thể thiếu trong cuộc đời của một Ki-tô hữu. Người Ki-tô hữu được khuyên rằng: phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Lời khuyên này, không tự Giáo Hội đề ra nhưng là do chính Đức Giê-su truyền dạy.

Trong những ngày ra đi loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su không chỉ nói cho mọi người biết về một Thiên Chúa “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”, mà Ngài còn tuyên bố rằng, vị Thiên Chúa đó, sẽ có một ngày  “…Uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy, tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân trời khác”. (x.Mt 24, 30-31). Cái ngày đó, Đức Giê-su nói: sẽ xảy ra vào “chính giờ phút anh em không ngờ”.

Vâng, chính vì yếu tố “không ngờ” đó, Ngài đã có lời khuyên rằng: “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”. Và, để cho mọi người thấu hiểu thế nào là “không ngờ”,  Đức Giê-su đã kể một câu chuyện, câu chuyện “ông chủ đi dự tiệc cưới” như là một lời cảnh tỉnh.
**
Câu chuyện được ghi lại như sau: Hôm ấy, Đức Giê-su đã có lời truyền dạy, rằng: “Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về”.

Tại sao Đức Giê-su lại dùng một bữa tiệc cưới để làm đề tài cho một lời khuyên dạy? Thưa, là bởi, theo phong tục Do Thái, tiệc cưới thường kéo dài trong bảy ngày và thậm chí có thể kéo dài hai tuần, vì thế, việc ông chủ về thật khó đoán. Chính vì khó đoán, nên việc ông chủ về rất bất ngờ,  không ai có thể ngờ được.

Vì, không ai có thể ngờ được, nên Đức Giê-su có lời khuyên rằng: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn”.

Lời khuyên “hãy thắt lưng” hàm ý nghĩa gì? Thưa, qua lời khuyên này, Đức Giê-su muốn nhấn mạnh đến sự “sẵn sàng”, sự sẵn sàng của một chiến binh nai nịt vũ khí sẵn sàng chiến đấu, một hình ảnh không người Do Thái nào lại không hơn một lần trải nghiệm.

Còn việc “thắp đèn cho sẵn” ư! Cũng rất cần thiết. Cần thiết bởi như câu chuyện đã được Đức Giê-su kể thì: “Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về” thì rõ ràng lúc đó trời hãy còn tối, mà trời còn tối thì lời khuyên “thắp đèn cho sẵn” quả là lời khuyên “vàng ngọc”.
(Khẳng định lúc đó trời còn tối, vì người Do Thái tính giờ cũng không khác Việt Nam của chúng ta là mấy. Việt Nam ngày xưa, tính “đêm năm canh ngày sáu khắc”. Còn người Do Thái ư! Vâng, họ tính hơi khác chúng ta, “bốn canh đêm và bốn canh ngày”.  Vào ban đêm, canh thứ nhất bắt đầu từ lúc hoàng hôn đến 9 giờ khuya;  canh thứ hai từ lúc 9 giờ khuya đến nửa đêm, canh thứ ba từ nửa đêm đến 3 giờ sáng; và canh thứ tư từ 3 giờ sáng đến lúc mặt trời mọc” (nguồn: internet).

Hôm đó, sau những lời khuyên, Đức Giê-su kết thúc với lời khuyến cáo: “Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (x.Lc 12, 39-40)

***  Lời khuyến cáo là như thế đấy. Và, tất nhiên, Đức Giê-su không chỉ khuyến cáo các môn đệ xưa, mà cũng là khuyến cáo mỗi chúng ta, hôm nay.

Đừng… đừng chất vấn Đức Giê-su khi Ngài không trả lời câu hỏi của tông đồ Phê-rô, khi ông ta hỏi rằng: “Lạy Chúa! Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?”

Trái lại, hãy tự chất vấn mình về những điều Đức Giê-su đã đáp lời Phê-rô, rằng: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc?”

Với lời đáp như thế, câu chuyện dụ ngôn, không nói ra, chúng ta cũng có thể tin rằng Đức Giê-su muốn xem đó như là một thông điệp… một thông điệp dành cho tất cả mọi người.

Và, dựa vào lời của Đức Giê-su, chúng ta thấy rằng, Ngài đã đặt vào tay  người đầy tớ một nhiệm vụ mới, anh ta bây giờ không chỉ là một anh gác cửa, nhưng còn được giao trọng trách là người quản gia. Anh ta không chỉ ngồi đó chờ chủ về để mở cửa, nhưng còn phải làm tròn trách nhiệm những gì ông chủ giao phó.
Tới đây, chúng ta hiểu thế nào về lời nói của Đức Giê-su? Thưa, rất dễ hiểu. Là một Ki-tô hữu, mỗi chúng ta cũng là người quản gia của Đức Giê-su.

Mỗi chúng ta phải “coi sóc kẻ ăn người ở”. Kẻ ăn người ở, đó là giáo dân, nếu chúng ta là Giám Mục hay Linh Mục. Kẻ ăn người ở, đó là con cái, nếu chúng ta là cha, là mẹ.

Mỗi chúng ta phải “cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc, đó là những bài giảng trong thánh lễ, nếu chúng ta là Giám Mục hay Linh Mục. Cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc, đó là giáo dục con cái, lo cho con cái có cái ăn, cái mặc đầy đủ, nếu chúng ta là cha, là mẹ.

Nếu mỗi chúng ta làm tròn những phần việc nêu trên, người đó mới có thể được nhìn nhận là người quản gia trung tín, và hơn thế nữa, như lời Đức Giê-su nói: “Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta”.

Còn nếu chúng ta không làm tròn những phần việc nêu trên. Là cha là mẹ chúng ta bỏ bê con cái, sống chết mặc chúng… Là Giám Mục hay Linh Mục chúng ta chỉ lo làm sao cho ngôi nhà thờ mình to lớn, lộng lẫy với những tháp chuông cao hàng trăm mét, những quả chuông “khủng” nặng hàng trăm ký, mà không lo  cho ngôi nhà tâm hồn của giáo dân, không lo chuẩn bị thức ăn tâm linh (bài giảng) cho giáo dân một cách nghiêm túc… thì có khác nào chúng ta đang “đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say  sưa”!!

Tất cả những hạng người đó, hãy coi chừng! Đến ngày Đức Giê-su đến, Ngài sẽ “loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những kẻ thất tín” (x.Lc 12, …46)

**** Vâng, là phàm nhân đầy yếu đuối, có phần chắc chúng ta sẽ có đôi lúc không làm tròn trách nhiệm Chúa giao phó. Sẽ có đôi lúc chúng ta “ngã lòng”, khi thời gian chờ đợi ngày Chúa sẽ đến, quá lâu.

Đó là chưa nói đến chuyện khi mà trong thời gian chờ đợi đó, chúng ta luôn phải đối phó với biết bao nghịch cảnh như: chiến tranh, bịnh tật, sự dữ và biết bao nhiêu là cám dỗ của thế gian, với nhan nhản “phường gian ác nhởn nhơ khắp chốn, chuyện đê hèn đầy dẫy nhân gian” (Tv 12, 9)

Để rồi, sẽ có lúc chúng ta phải gào thét lên, như xưa kia vua David đã phải gào thét: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giờ? Tới bao giờ còn ngoảng mặt làm ngơ? Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo lắng và lòng con ủ rũ đêm ngày?” (x.Tv 13, 1-2)

Điều gì có thể giúp chúng ta can đảm đối mặt với  những hoàn cảnh bi đát nêu trên? Thưa, tông đồ Gia-cô-bê có lời khuyên, rằng: “Thưa anh em, xin anh em  hãy kiên nhẫn cho đến ngày Chúa quang lâm. Kìa, xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá, họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới” (Gc 5, 7-8)

Thưa quý vị, hãy tin ngày Chúa quang lâm đã tới gần. Và, điều quan trọng nhất cho chúng ta hôm nay, đó là hãy xin được ơn kiên nhẫn. Xin ai? Thưa, xin Chúa.
Ngôn sứ Mikha chính là  tấm gương kiên nhẫn tuyệt vời mà chúng ta cần noi theo. Hãy nghe ngài cầu nguyện với Thiên Chúa với tất cả tấm lòng phó thác: “Phần tôi, tôi ngóng đợi ĐỨC CHÚA, tôi cậy trông Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi; Thiên Chúa của tôi sẽ nghe tiếng tôi kêu cầu” (Mk 7,7)

Vâng, hoàn cảnh của chúng ta không phải là hoàn cảnh của một tử tù chờ ngày hành quyết. Người tử tù đó bắt buộc phải “chờ đợi” ngày hành quyết, chờ đợi trong tuyệt vọng.  Chúng ta khác hẳn.  Chúng ta sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa sẽ đến vì biết rằng Người sẽ thực hiện lời hứa, hứa ban cho chúng ta sự sống vĩnh cữu vào đúng thời điểm tốt nhất.

Thế nên, có gì ngăn cản chúng ta “chịu đựng mọi sự với lòng kiên nhẫn và vui mừng” (x.Cl 1, 11-12) Kinh Thánh có ghi lại rất nhiều tấm gương kiên nhẫn, kiên nhẫn trong nghịch cảnh như: Áp-ra-ham, Giu-se, David v.v…

Thiên Chúa không đòi chúng ta kiên nhẫn nếu Người không sẵn sàng kiên nhẫn. Thiên Chúa đã nêu gương về việc sẵn sàng chờ đợi. Chúng ta hãy nghe lời chứng thực của tông đồ Phê-rô: “Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ  cho là  Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh  em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải” (2Pr 3, 9)

 Vì thế, mỗi chúng ta cần sẵn sàng tỉnh thức chờ đợi và tỏ ra kiên nhẫn. Điều gì sẽ giúp chúng ta làm như thế? Thưa, hãy cầu xin Thần Khí của Thiên Chúa. Hãy nhớ rằng, kiên nhẫn là một khía cạnh của hoa trái Thần Khí. Hãy nài xin Thiên Chúa giúp chúng ta kiên nhẫn chịu đựng.

Thế nên, dù phải đối mặt với biết bao thách thức cho việc làm người quản gia trung tín của Thiên Chúa, cũng như việc chờ đợi ngày Con Người sẽ đến, chúng ta cũng đừng sợ mà hãy cất tiếng nguyện rằng: “ĐỨC CHÚA là phần sản nghiệp của tôi, tôi sẽ kiên nhẫn chờ đợi Người” (Ac 3, 24).

Vâng, chúng ta hãy vững tin và kiên nhẫn chờ đợi Chúa.

Petrus.tran






Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2019

Hãy Yêu Thương và Tha Thứ.


Chúa Nhật VII – TN – C

Hãy Yêu Thương và Tha Thứ.

Yêu thương để tha thứ và tha thứ để yêu thương. Vâng, đó là điều không ai trong chúng ta lại không mong muốn. Mà, thật vậy, trong thế giới tình cảm của con người, yêu thương là điều rất cần thiết. Cần thiết là bởi, trong cuộc sống thường nhật, “không phải lúc nào cũng chỉ có niềm vui, còn có cả sương mù và giá lạnh nữa”(Louis Evely). Chính trong những lúc “sương mù và giá lạnh” đó, điều gì an ủi được chúng ta, nếu không phải là nhận được từ một ai đó sự yêu thương! 

Còn về sự tha thứ ư! Vâng, không ai là thánh nhân. Cuộc sống của con người là một chuỗi dài của lầm lỗi. Có ai mà không hơn một lần phạm tội. Thế nên, có ai mà không mong muốn được hưởng sự tha thứ, sau mỗi lần lầm lỗi, phạm tội!

Luận bàn về sự tha thứ, Mahatma Gandhi nói: “Kẻ yếu không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm cách của kẻ mạnh.” Victor Hugo thì nói: “Tha thứ là tôn giáo tuyệt vời nhất”. Còn Martin Luther ư! Ông ta nói: “Tha thứ là mệnh lệnh của Chúa”. Đúng vậy, Ki-tô giáo đã xem yêu thương và tha thứ chính là lệnh truyền của Đức Giê-su. Lệnh truyền này đã được ghi lại rất chi tiết trong Tin Mừng thánh Luca.

** Theo lời thánh Luca ghi lại, thì, hôm ấy, sau khi lên núi cầu nguyện, Đức Giê-su cùng với các môn đệ xuống núi. Sau đó, Ngài đã dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đây, ngoài các môn đệ, người ta còn thấy đoàn lũ dân chúng từ khắp mọi nơi đến, đến để nghe Ngài giảng dạy.

Hôm ấy, bắt đầu cho lời truyền dạy, Đức Giê-su đã dạy cho mọi người những phương cách sống, sống sao để nhận được phước hạnh bây giờ cũng như mai sau ở trên trời, sống sao để tránh những mối họa, những mối họa làm cho con người phải diệt vong.

Không cổ vũ cho một lối sống tiêu cực, “mắt đến mắt, răng đền răng”, Đức Giê-su tiếp tục có những lời phán dạy đầy nhân bản, Ngài dạy rằng: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa”(x.Lc 6, 27-30)

Tất cả những lời Đức Giê-su truyền dạy, tựu trung đều xoay quanh hai vấn đề, đó là: “yêu thương và tha thứ”.

Thì đây, chúng ta hãy nghe tiếp lời Thầy Giê-su phán dạy: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho  người ta như vậy. Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ”. Và để kết thúc, Đức Giê-su thẳng thắn nhắc lại một lần nữa với các môn đệ, rằng: “Anh  em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả”.

***  
Tưởng chúng ta nên biết chữ “yêu” trong lời khuyên “Anh  em hãy yêu kẻ thù” không đồng nghĩa với chữ “yêu – love” trong tình yêu nam nữ. Chữ “yêu” ở lời khuyên này được hiểu theo chữ “Agape – Tình Bác Ái”  thường được dùng trong Kinh Thánh.

“Agape hoàn toàn là tình yêu thuần túy, thứ tình yêu như nuốt trọn (devour) những người trải nghiệm nó. Bất kỳ ai biết và trải qua Agape đều nhìn thấy rằng không có bất kỳ điều gì trên thế giới này quan trọng, ngoại trừ tình yêu. Đây là loại tình yêu mà Chúa Jesus đối với nhân loại, và điều đó thật tuyệt vời đến mực làm rung động (shake) những ngôi sao và thay đổi lịch sử loài người.”(nguồn internet)

Bây giờ chúng ta trở lại với những phương cách yêu thương mà Đức Giê-su truyền dạy, nó có quá là “kỳ lạ”!!! Thưa, nếu chúng ta tiếp nhận những phương cách đó, theo nhãn giới thế gian, thì quả đúng là kỳ lạ, và khó thực hiện. Còn, nếu tiếp nhận với đôi mắt đức tin, thì những phương cách yêu thương đó lại là những phương cách yêu thương “kỳ vĩ”.

“Phải có lòng nhân từ”. Đúng, để có thể yêu thương, yêu thương theo phương cách Đức Giê-su truyền dạy, phải có lòng nhân từ, và đó là sự kỳ vĩ, sự kỳ vĩ chỉ có ở Thiên Chúa, một Thiên Chúa “ưa sự nhân từ”.

Hôm ấy, trước các môn đệ, Đức Giê-su đã lớn tiếng phán dạy: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh  em là Đấng nhân từ”.  Tiếp theo lời phán dạy, Đức Giê-su đã phác họa ra một lộ trình, một lộ trình để thể hiện lòng nhân từ, đó là: “Đừng xét đoán… Đừng lên án… Hãy tha thứ… Hãy cho (đi)”.

Thánh Vịnh (33, 5), có chép rằng: “Chúa yêu thích điều công minh chính trực”. Hôm ấy, Đức Giê-su đã nói lên sự công minh chính trực của Thiên Chúa dành cho những ai biết yêu thương và tha thứ, rằng: “Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”(x. Lc 6, 38)

**** Lời Đức Giê-su truyền dạy là như thế. Thế nên, đã là một Ki-tô hữu, hãy tự hỏi mình rằng, “yêu thương và tha thứ” có là hành trang cho cuộc hành trình về Nước Trời của mỗi chúng ta? Hay, vì mớ hành trang đó “quá nặng nề” nên ta đã không muốn nó hiện diện trên đôi vai cho cuộc hành trình của mình?  

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn câu trả lời đó đem lại cho chúng ta “phần thưởng lớn lao”, thì đừng quên… đừng quên nhìn lại những tấm gương về sự yêu thương và tha thứ, (những tấm gương đó đã được ghi lại trong Kinh Thánh cũng như trong lịch sử Giáo Hội), và xem đó như là mẫu mực cho cuộc  sống của mình.

Vâng, hãy trở về đất nước Israel của thời Cựu Ước. Chuyện kể rằng, có một chàng trai trẻ làm nghề chăn chiên tên là David. Và lúc đó, Israel đang lâm vào một cuộc chiến tranh với Philitinh. 

Bên phe địch có một mãnh tướng khổng lồ tên là Gôliat. Tên mãnh tướng này mỗi ngày đều ra thách đấu với Israel. Vua Israel là Saul hoảng sợ vì không có vị tướng lãnh nào dám ra đối đầu.

Nguồn tin này đến tai David. Chàng trai này lập tức gặp vua Saul để xin nghênh chiến. Nhà vua chấp nhận. Kết quả là, chàng trai David đã hạ tên khổng lồ Gô-li-at như trở bàn tay. Với chiến thắng này, David được toàn thể dân Israel ngưỡng mộ. Những người phụ nữ vui đùa ca hát rằng: “Vua Saul hạ được hàng ngàn, ông David hàng vạn”(x.1Sm 18, 7)

Chuyện này lọt đến tai vua Saul, kể từ đó nhà vua căm ghét David. Ông ta trở mặt coi David như kẻ thù, một kẻ thù đang cố chiếm đoạt ngai vàng của nhà vua. Saul nhiều lần tìm cách giết David, nhưng không thành công.

Ngược lại, David lại có cơ hội giết vua Saul, nhưng chàng trai này đã không hạ thủ. David không hạ thủ vì kính trọng người đã được ĐỨC CHÚA xức dầu tấn phong.

Với hành động này, David, một cách rõ nét, đã thực hiện lời Chúa truyền dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. David thật sự tha thứ cho vua Saul dù cho nhà vua luôn tìm cách truy sát mình.

***** Ngày nay, ai có thể thực hiện được như David? Có phần chắc không phải là đám lãnh tụ “xôi thịt” đang tìm cách triệt hạ nhau, như chúng ta đã và đang chứng kiến, hằng ngày.

Tuy nhiên… tuy nhiên có một tấm gương mẫu mực để chúng ta noi theo, đó chính là ngài Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II. Hầu như cả thế giới đều biết câu chuyện vị Giáo Hoàng này đã tha thứ cho kẻ mưu sát mình, người Thổ Nhĩ Kỳ, tên là Mehmet Ali Agca.    

Vâng, chúng ta hãy đọc lại đôi dòng trong cuốn “Ký ức và Căn Tính” (Memory & Identity do Nhà xuất bản Weidebfeld & Nicolson, UK) trang 180, Đức Giáo Hoàng kể lại rằng: "Đúng, tôi nhớ lại chặng đường tới bệnh viện. Trong một khoảng khắc ngắn ngủi, tôi đã bất tỉnh. Tôi có một cảm giác rằng tôi sẽ sống sót. Tôi bị đau và đây đã là một lý do để sợ sệt nhưng tôi có một sự tín thác lạ thường. Tôi nói với cha Stanislaw (vị thư ký riêng của Đức Thánh Cha nay là Tổng Giám Mục tại Krakow, Balan) rằng tôi đã tha thứ cho kẻ sát hạt tôi. Những gì đã xảy ra tại bệnh viện, tôi không còn nhớ." (nguồn: internet). Chưa dừng ở đó, chuyện được ghi lại, rằng: vào năm 1983 Đức Thánh Cha đã đến nhà tù Roma thăm và ôm lấy kẻ đã bắn vào mình.

Đây là hai điển hình, (một xưa và một nay), về sự yêu thương và tha thứ. Riêng Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô, ngài đã thể hiện rõ nét điều Đức Giê-su đã cầu nguyện trên thập giá tại Golgotha: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”.

Là một Ki-tô hữu, chúng ta phải thực thi những gì Đức Giê-su đã truyền dạy, đó là: yêu thương và tha thứ.

Vâng, phải yêu thương, bởi vì, lời Đức Giê-su đã nói: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”. Và, phải tha thứ, vì, lời Đức Giê-su đã nói: “thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha”.  

Thế nên, dẫu cho chúng ta đang phải sống trong một xã hội cổ vũ cho một nền văn hóa sự chết, một nền văn hóa thiếu tình yêu thương (phá thai), chúng ta cũng vẫn phải sống theo các giáo huấn mà Thiên Chúa đã phán truyền: “Chớ giết người”.  Thế nên, dẫu cho chúng ta đang phải sống chung với một xã hội  thiếu lòng bao dung và tha thứ (trả thù, ăn miếng trả miếng), chúng ta cũng vẫn phải sống theo các gương lành của Đức Giê-su: “hãy có lòng nhân từ”.

Vâng, cuộc sống còn rất nhiều người nghèo đói, cơ nhỡ, cô đơn… tình yêu thương sẽ là “hồng cầu” nuôi dưỡng họ. Cuộc sống còn lắm kẻ lầm lạc, còn lắm kẻ thiếu nhân cách, thích gièm pha, ưa xúc xiểm gây tổn thương trầm trọng kẻ khác v.v… lòng bao dung và sự tha thứ chính là liều thuốc “hồi sinh” nhân cách những con người đó.

Hãy nhớ rằng, thánh lễ chính là “nguồn sức mạnh”, nguồn sức mạnh qua việc tham dự Tiệc Thánh Thể, một bữa tiệc Thiên Chúa đã khoản đãi chúng ta bằng Mình và Máu Thánh Đức Giê-su Ki-tô - “chén Máu Thầy… đổ ra cho chúng ta và để chúng ta được tha tội”. 

Đó… đó chính là sức mạnh giúp chúng ta vượt thắng những rào cản của tham-sân-si, để rồi chúng ta dám lớn tiếng nói với nhau rằng: “Hãy đến chia nhau nghèo khó. Quên lo tương lai mịt mờ. Hãy cố yêu người mà sống. Lâu rồi đời mình cũng qua”.  Nói cách khác, chúng ta sẽ trở thành những con người giàu tình yêu thương và lòng tha thứ.

Vâng, là một Ki-tô hữu, phải sống theo giáo huấn của Chúa, đó là: “Hãy Yêu Thương và Tha Thứ”.

Petrus.tran





















Thứ Hai, 18 tháng 2, 2019

Yêu thương đem lại hạnh phúc.


Chúa Nhật VI – TN – C 

Yêu thương đem lại hạnh phúc.

Con người, sống trên cõi đời này, ai cũng muốn mình hạnh phúc. Chả thế mà, cứ vào mỗi dịp lễ tết, ai cũng muốn mình nhận được những lời chúc  tốt đẹp nhất. Câu chúc được cho là tốt đẹp nhất chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đồng ý, đó là câu “Phúc – Lộc – Thọ”.  Với người phương tây, rất giản dị: “Happy New Year”. 
Ngoài những lời chúc trên, người ta còn chúc cho nhau làm ăn phát đạt, “tiền vô như nước sông Đà, tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin”. Người ta cũng không quên chúc nhau năm mới được thăng quan tiến chức v.v… 

Chúc thì chúc vậy, nhưng có mấy ai hiểu được rằng, những lời chúc đó,  (nếu có xảy ra), theo thời gian, rồi cũng chẳng tồn tại. Đúng như lời (sách Giảng Viên) có nói: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”(x.Gv 1, 2) 

Với Thiên Chúa, Người rất muốn con người được hạnh phúc. Và, hạnh phúc đó, phải là hạnh phúc trong Thiên Chúa, trường tồn vĩnh cửu.
Nếu xưa kia, vào thời Cựu Ước, Đức Chúa đã phán với ông Mô-sê:  “Hãy nói với A-ha-ron và các con ông ấy rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: ‘Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em, và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn, và ban bình an cho anh em!’. Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.” Thì sau này, vào thời Tân Ước, Thiên Chúa, qua Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, cũng đã “tươi nét mặt” chúc lành và gìn giữ con người.
**
Thật vậy, theo lời thánh sử Luca ghi lại, thì, một ngày nọ, có rất đông dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền Tia và Si-đôn đến để nghe Đức Giê-su giảng và để được chữa lành bệnh tật.
Người đã giảng dạy những gì và đã chữa bệnh ra sao? Thưa, về việc chữa bệnh, hôm đó, sự việc xảy ra rất kỳ diệu,  “Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự  nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người” (x.Lc  6, 19)

Còn về việc giảng dạy thì sao! Thưa, hôm ấy, trước đám dông dân chúng cùng mười hai vị môn đệ, lời giảng dạy của Đức Giê-su rất mới lạ, mới lạ vì đó là những lời chúc phúc. Ngài đã chúc rằng: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh  em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh  em là những kẻ bây giờ  đang phải khóc, vì anh  em sẽ được vui cười”.  

Và, lời chúc phúc cuối cùng, đó là: “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa”

Có lẽ, có không ít người đã vội nản lòng về những lời chúc phúc “khó nghe” như thế. Thế nhưng, hãy nhớ rằng, cái nhìn của Thiên Chúa khác với cái nhìn của thế gian, như có lần Đức Giê-su đã nói với ông Phê-rô, vì đã ngăn cản sứ vụ của Ngài: “Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. 

Tư tưởng của Thiên Chúa, hay nói cách khác, tư tưởng của Đức Giê-su, là gì sau những lời chúc phúc? Thưa, hôm ấy, trước đông đúc cử tọa, Đức Giê-su đã nói cho mọi người biết rằng,  những lời chúc phúc đó sẽ đem đến cho mọi người niềm vui và hạnh phúc, niềm vui và hạnh phúc đó là: “Ngày đó… phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”. 

*** Thiên Chúa muốn con người được hạnh phúc. Và, Người, qua Con Một là Đức Giê-su Ki-tô,  đã chúc phúc cho chúng ta như thế đấy. Chúng ta đón nhận (những lời chúc phúc nêu trên) và tin vào lời phán hứa của Người? 


Hay, chúng ta, với cái nhìn hạn hẹp,  thường bằng lòng với hạnh phúc kiểu thế gian?... Nếu đúng vậy, thì đó là một chọn lựa nguy hiểm. 

Nguy hiểm vì, trước những mối lợi trần thế, (tiền bạc, danh vọng, quyền lực v.v…) và nghĩ rằng nó sẽ đem lại hạnh phúc cho chúng ta, thế nên, bằng mọi cách, (đôi khi bất chấp thủ đoạn), chúng ta phải sở hữu cho được. Và, đó là lý do con người tranh giành, chiếm đoạt, cấu xé lẫn nhau. Cuối cùng, tham-sân-si như một “bức tường” ngăn cách chúng ta đến với nguồn hạnh phúc thật trong Thiên Chúa. 

Vâng,  hạnh phúc thật, phải là hạnh phúc trong Thiên Chúa. Câu chuyện Adam và Eva như một điển hình.
Sáng thế ký (chương 2), ghi rằng: Thiên Chúa dựng nên con người là Adam. Adam được Thiên Chúa cho sống trong vườn Eden, nơi được gọi là “khu vườn hạnh phúc”. Adam hạnh phúc vì được ở trong vườn với Thiên Chúa. Ông ta có mối tương giao mật thiết với Thiên Chúa, Ông ta tôn vinh và vui hưởng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống. Ông ta hạnh phúc thật. 

Tiếc thay! Khi Adam vi phạm lệnh truyền của Thiên Chúa, mối tương giao giữa ông và Thiên Chúa bị phá vỡ. Ông ta bị đuổi ra khỏi khu vườn hạnh phúc. Cuối cùng là “mất phúc”. 

Ngôn sứ Gê-rê-mi quả quyết rằng: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA, và có ĐỨC CHÚA làm chỗ nương thân”.  Ngài ngôn sứ tiếp lời: “Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái” (x.Gr 17, 8) 

****
“Có ĐỨC CHÚA làm chỗ nương thân… Mùa nóng có đến cũng không sợ gì” nghĩa là gì? Thưa, theo lời chia sẻ của Lm. Charles E. Miller, nghĩa là, “Nghèo khó vẫn có thể hạnh phúc, bởi vì trong cái nghèo chúng ta có Thiên Chúa và đặt niềm tin vào Ngài”. 

“Có ĐỨC CHÚA làm chỗ nương thân… gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại” nghĩa là gì? Thưa, theo lời chia sẻ của Lm. Charles E. Miller, nghĩa là, “Đói khát vẫn có thể hạnh phúc, nếu ta để cơn đói khiến mình ao ước có Chúa lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn, chứ không chỉ trong dạ dày”. 

Vâng, khi đề cập đến những “mối phúc” nêu trên, Đức TGM. Ngô Quang Kiệt có lời chia sẻ: “Chúa không lên án vật chất, nhưng chỉ lên án thái độ sử dụng vật chất. Vật chất do Chúa dựng nên để phục vụ con người. Chúa dựng nên và Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng con người đã làm sai chương trình của Chúa.
Thay vì sử dụng vật chất như phương tiện, người ta đã biến nó thành mục đích. Thay vì sử dụng vật chất phục vụ đồng loại, người ta đã sử dụng đồng loại để phục vụ vật chất. Đó là những thái độ bị Chúa lên án. Những thái độ ấy biến vật chất thành chướng ngại ngăn cản ta đạt đến hạnh phúc Nước Trời. 

Sau cùng, Chúa không khuyến khích cảnh nghèo, càng không khuyến khích những người vì lười biếng mà trở nên nghèo. Chúa chỉ khuyến khích những người vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo”.

Thế nên, đừng khó chịu, khi Đức Giê-su nặng lời cảnh báo trước những “mối họa” mà rất có thể  một lúc nào đó chúng ta đối diện, rằng: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi rồi”.

Cũng đừng khó chịu khi Đức Giê-su nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ bị đói”. 

Cũng đừng khó chịu khi Đức Giê-su nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than”.

Đức Giê-su nói là vậy, nhưng nếu ngộ nhỡ chúng ta là người giàu có thì sao? Làm sao đây?

Làm sao đây, để không bị gọi là “khốn”, nếu chúng ta là những kẻ giàu có? Thưa, đừng bao giờ quên lời thánh Phao-lô truyền dạy: “Cho thì có phúc hơn là nhận”(x.Cv 20, 35). Nói cách khác, đừng ngoảnh mặt làm ngơ trước những kẻ nghèo khó, bệnh hoạn,  tật nguyền.  

Làm sao đây, để không bị gọi là “khốn”, nếu chúng ta đang được no nê? Thưa, hãy thực thi lời truyền dạy của ông Gio-an Tẩy Giả: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”(x.Lc 3, 11)

Làm sao đây, để không bị gọi là “khốn”, nếu chúng ta là những kẻ đang được vui cười? Thưa, lại phải thực thi lời thánh Phao-lô truyền dạy, mà thôi. Vâng, ngài đã truyền dạy rằng: Hãy “vui với kẻ vui, khóc với người khóc”(x.Rm 12, 14)

Như vậy, những lời chúc “phúc” mà  Đức Giê-su đã truyền dạy cho mỗi chúng ta, có gì là “khó” đón nhận, nhỉ! Cũng vậy, những “mối họa” mà Đức Giê-su đã cảnh báo cho mỗi chúng ta, có gì là khó hóa giải, nhỉ? 
Không…  không có gì khó đón nhận. Và, không có gì khó hóa giải. Chỉ cần một cử động của tâm hồn, một tâm hồn đón nhận Đức Giê-su và thực hiện lối sống, lối sống mà Ngài đã truyền dạy: “Hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em”.

Bởi vì, yêu thương chính là động lực giúp chúng ta dễ dàng thực thi những lời chúc phúc (nêu trên) mà Đức Giê-su đã truyền dạy. Nói ngắn gọn: “Yêu thương đem lại hạnh phúc”.

Petrus.tran










Thứ Sáu, 8 tháng 2, 2019

Lời Chúa: Hôm nay được ứng nghiệm.


Chúa Nhật – IV – TN – C  

Lời Chúa: Hôm nay được ứng nghiệm.

Thành kiến là gì? Thưa, nghĩa là: ý kiến nhận xét không tốt (về một ai đó, hoặc một vấn đề nào đó)  ăn rất sâu vào não trạng, khó thay đổi. Có thể nói thành kiến là một tính xấu. Thế mà, cái tính xấu này lại là căn bệnh trầm kha trong suốt chiều dài lịch sử con người.
Tại sao tôi lại có thành kiến với người khác?  Câu trả lời có vẻ như rất hữu lý, đó là “vì tôi thích điều tốt, cho nên khi thấy người khác có hành vi không tốt, tôi lập tức lên án”.

Còn theo các nhà tâm lý học, thì cho rằng: cái tính ác nằm sẵn trong con người, thế nên tôi rất thích dèm pha hạ bệ kẻ khác và cảm thấy vui mừng khi người khác bị hạ bệ.

Với những nhận định nêu trên, thành kiến quả không khác gì một con quái vật. Mà, thật vậy, về mặt xã hội, thành kiến có thể làm thui chột một tài năng. Về mặt tôn giáo, thành kiến có thể giết chết niềm tin. 

Về chuyện “thui chột một tài năng”, câu chuyện ba anh em kết nghĩa vườn đào: Lưu Bị, Quan Vân Trường và Trương Phi thời Tam Quốc, như là một ví dụ điển hình.

Theo truyện Tam Quốc Chí ghi lại, họ là ba anh em kết nghĩa, tự chiêu mộ nghĩa binh, thành lập một đạo quân đánh đông dẹp bắc, chiến thắng lừng lẫy trước giặc khăn vàng. Trong trận kịch chiến giữa dũng binh của Lưu Bị với đoàn quân của Trương Giốc. Quân của Giốc náo loạn bỏ chạy. Nhờ thế, Lưu Bị giải cứu được Đổng Trác. Khi về đến bản doanh, Trác hỏi ba anh em Lưu-Quan-Trương rằng “ba người hiện làm chức quan gì?”. Lưu Bị cho biết họ hiện còn là chức “chân trắng”, nghĩa là một chức hạng bét trong quân. Khi nghe như thế, con quái vật thành kiến bùng phát trong con người Đổng Trác. Tác giả La-Quán-Trung viết “Trác nghe qua, trở mặt khinh khinh, không thèm thi lễ tiếp đãi”.

Không có gì ngạc nhiên, bởi trước mắt Đổng Trác, Lưu Bị chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt và nhất là, nếu Đổng Trác biết Lưu Bị xuất thân chỉ là tên “làm nghề tết dép dệt chiếu” thì con mắt của Đổng Trác chắc hẳn sẽ còn khinh khỉnh hơn nữa...

Nhà bác học Einstein nhận xét rằng: “Phá vỡ một thành kiến còn khó hơn phá vỡ một nguyên tử”.

Còn về chuyện thành kiến có thể giết chết niềm tin ư! Thưa, câu chuyện “Đức Giê-su tại Na-da-rét” được ghi trong Tin Mừng Thánh Luca, sẽ cho chúng ta thấy “thành kiến” nguy hiểm như thế nào.
**  
Chuyện được kể rằng: “Được quyền năng Thần Khí  thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Galile”. Tại đây, “Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người tôn vinh”.

 sinh trưởng ở Na-da-rét, thế nên, hôm ấy Đức Giê-su cũng đã trở về quê hương của mình.

Hôm đó, Người vào hội đường. Hân hạnh thay, Đức Giê-su được đọc Sách Thánh. Cuốn sách được Ngài lớn tiếng đọc, đó là sách ngôn sứ Isaia.

Vâng, lời ngôn sứ Isaia, qua giọng đọc của Đức Giê-su, như một bản tình ca ngân vang khắp hội đường, nó như nổ tung nơi cung lòng cử tọa một giai điệu của tình yêu, của hồng ân khi chàng nghệ sĩ Giêsu cất tiếng hát lên: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”

Khi bài Sách Thánh chấm dứt, toàn thể cộng đồng chăm chú nhìn Người trong thinh lặng. Về phần Đức Giê-su, Người cất tiếng nói với họ: “Hôm nay, đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.

Nghe những lời tuyên bố như thế, cả hội đường như nổ tung lên. Câu chuyện được kể tiếp, rằng: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ Người”.

Nhưng than ôi! Những lời tán thành và thán phục đó, không đầy ba mươi giây, ngay lập tức vỡ tan… vỡ tan như bọt bong bóng xà phòng.

Vì sao! Thưa, vì họ chợt nhận ra một điều gần như là không thể! Họ đã xầm xì với nhau rằng: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”

Một ông Giuse thợ mộc, sao lại có thể sinh ra một ông Giêsu, được “Thiên Chúa xức dầu tấn phong” như chính ông ta tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.

Vâng, hôm ấy, một sự thất vọng hiện rõ trên từng khuôn mặt của tất cả cử tọa. Họ thất vọng, trước hết là vì gia thế của Đức Giê-su. “Con vua thì lại làm vua. Con sãi nhà chùa thì quét lá đa”. Với thành kiến như thế, con của một ông thợ mộc sao có thế là “Đấng Messia”!

Mà, nếu là Đấng Messia?  Vậy thì, vâng, hôm ấy, họ đã thách thức Đức Giê-su rằng: “Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Caphacnaum, ông cũng hãy làm tại quê ông xem nào!”

Đúng, đúng là một sự thách thức, một thách thức lớn khiến cho Đức Giê-su, (theo như lời kể lại của thánh sử Mác-cô): “Người không thể làm được phép lạ nào tại đó” (x.Mc 6, 5)

Ôi! quả là thật đáng tiếc, đáng tiếc là bởi, bản tình ca yêu thương của Thiên Chúa, qua lời tuyên bố của Đức Giê-su, đã bị con quái vật thành kiến khống chế. Sự khống chế đó đã tác động mạnh lên cư dân Na-da-rét. Hôm ấy, sau khi nghe Đức Giê-su nói như vậy,  “mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ”. Khi sự phẫn nộ lên đến tột đỉnh, chuyện kể tiếp rằng: “họ đứng dậy lôi Người ra khỏi thành , thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực” (x.Lc 4, 28-29)

Thế nhưng, đâu có “dễ ăn” như vậy. Hôm đó, Đức Giêsu đã “băng qua giữa họ mà đi”. Hành động của họ, quả đúng như lời Ngài nói: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”.

Đúng là thành kiến giết chết niềm tin.

***  
Qua câu chuyện nêu trên, có rất nhiều  bài học mà chúng ta cần lãnh hội.  Bài học thứ nhất,  đó là: chớ để đời sống (nhất là đời sống đạo) của chúng ta bị con quái vật thành kiến chi phối.

Bởi vì nếu ta để nó chi phối, rất nhiều điều tệ hại sẽ xảy ra. Về vấn đề này, ngài Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, qua bài viết mang tựa đề “Bụt nhà không thiêng”, có lời chia sẻ: “Thực tế sống đạo cho thấy, chính thành kiến về nhau đã ngăn cản nhau trong việc chấp nhận nhau, chấp nhận những cái hay cái tốt của nhau, đúng hơn chấp nhận các đặc sủng Thần Linh nơi nhau. Trái lại, đã không ưa ai, thì tất cả những gì con người đó làm dù có tốt đến đâu, có hay đến mấy, cũng không đáng lưu ý tới, thậm chí nghe thấy ai khen họ thì tìm cách hạ bệ họ... 

Có một người chị em chẳng có kiến thức về đạo là bao, chỉ mải miết say mê đọc Sứ Điệp Từ Trời, theo chiều hướng bảo thủ cực đoan, đã công khai lên tiếng chống Đức Thánh Cha Phanxicô đến độ dám nói với nhóm của chị ta trên email (mà người viết này đọc thấy) rằng, cho dù vị giáo hoàng này có làm phép lạ chăng nữa cũng là giáo hoàng giả, có được người ta khâm phục đến đâu chăng nữa cũng là giả hình v.v..” (nguồn: http://www.donggioanthienchua.net/but-nha-khong-thieng.html)

Khi đời sống của chúng ta không bị con quái vật thành kiến chi phối, điều gì sẽ xảy ra? Thưa, lòng bác ái, sự nhẫn nhục, lòng nhân hậu, sự từ tâm, tính hiền hòa…  sẽ nảy nở trong chúng ta. Nói, theo cách nói của thánh Phao-lô, đó là “hoa quả của Thần Khí”  ngự-trên-chúng-ta.

Một khi hoa quả của Thần Khí “ngự trên chúng ta”… Thưa quý vị, hãy tin, đó chính là lúc chúng ta đủ sức tiếp nối Đức Giê-su ra đi, ra đi  “loan báo Tin Mừng cho người nghèo… đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha… cho người mù biết họ được sáng mắt”. Và, cuối cùng là “công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”.

Nói cách khác, một khi Thần Khí Chúa ngự trên chúng ta, không một thế lực nào có thể ngăn cản chúng ta làm cho Lời Chúa được ứng nghiệm.

Vâng, chính chúng ta, phải là người làm cho “Lời Chúa, hôm nay được ứng nghiệm”

Petrus.tran  











Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...