Thứ Ba, 24 tháng 8, 2021

Thiên Chúa muốn tình yêu hơn là hy lễ.

 

Thiên Chúa muốn tình yêu hơn là hy lễ.

“Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu” (x.Hs 6, 6).



Chúa Nhật XXII – TN – B


Thiên Chúa muốn tình yêu hơn là hy lễ...

Phán xét hay xét đoán là một thói xấu. Là thói xấu, thế mà, trong cuộc sống thường nhật, có ai trong chúng ta lại không hơn một lần xét đoán một ai đó.

Xét đoán nhẹ thì bất quá chỉ để lại nơi người bị xét đoán một chút bực bội, khó chịu. Xét đoán nặng thì thật là kinh khủng. Người bị xét đoán có thể thân bại danh liệt, có thể mất đi cả một tiền đồ tương lai.

Đúng là vậy. Hồi trước 1975 tại Đà Nẵng, một gia đình có ba anh em xin đi tu. Bên cạnh nhà cũng có một cậu xin đi tu. Đi tu hồi đó, trước hết phải thi, thi văn hóa lớp đệ thất (lớp sáu bây giờ), nếu đậu mới được vào tiểu chủng viện.

Ba anh em nhà kia, lần lượt mỗi năm anh em họ đều lần lượt thi đậu. Riêng cậu em hàng xóm, thi rớt. Thi rớt có nghĩa là không được “đi tu”. Thế là, cha của cậu em này, “quê độ” sao đó, đi rêu rao với mọi người rằng: “Ối giời! ba thằng đó cha chúng nó cho đi tu chẳng qua là để ăn bám Giáo Hội”.

Ghét, ganh tỵ… ông ta mới đưa ra lời xét đoán ác ý, như thế. Chứ thực ra, gia đình ba anh em đó đâu có nghèo. Cha là trung sĩ, lãnh lương một vợ sáu con, giàu thì không giàu, nhưng đủ sức nuôi con ăn học thành tài.

Này nhé, học thì học trường Văn Hóa Quân Đội, miễn phí. Lương thực, thực phẩm thì có “quân tiếp vụ”, rẻ rề. Đó là chưa nói đến lãnh trợ cấp phụ trội hàng tháng, gồm có: dầu ăn, đồ hộp v.v… Thế thì, xin đi tu là đi tu chứ liên quan gì đến việc ăn bám Giáo hội!

Thật ra, nếu có “bám” là bám vào một ngôi trường mà linh mục và tu sĩ chính là những “ông thầy” đầy kiến thức và học vấn, đấy thôi.

Quý phụ huynh thời đó cho con em mình đi tu, thường nói: “cho cháu đi tu, nếu không 'đỗ cụ', thì cũng lĩnh hội được một nền học vấn tốt”.

Thiệt là vậy đó. Có anh nào “ta ru”, sống cuộc sống ngoài đời mà không học giỏi! Sinh ngữ Anh - Pháp khỏi chê. Dân seminary nha. 

Trở lại ba chàng ngự lâm pháo thủ đi tu. Khi những lời xét đoán đến tai ba chàng. Người anh cả (anh hai) cứ “suy đi nghĩ lại” lời xét đoán đó, mãi cho đến một hôm (hơn chục năm sau), anh ta vào gặp cha giám đốc chủng viện và nói: “con xin về”. Người thứ ba thì “nửa đường đứt gánh”. Con chàng thứ hai (anh ba) thì ai nói gì mặc kệ, “lạc đà ta cứ đi”. Anh ta đã đi tới đích. Cái đích hôm nay là linh mục chánh xứ mới ghê chứ. 

Dạ, nhiều chuyện chút xíu. Vâng, chỉ chút xíu thôi, nếu chúng ta nghe Robert Southy nói: “Những người vội vã xét đoán dựa trên bề ngoài hiếm khi thấy được bản chất sự việc”, ta sẽ chẳng bao giờ xét đoán ai cả. 

Ngài Robert Southy nói rất đúng. Điển hình cho loại người này chính là quý cụ Pha-ri-sêu và kinh sư vào thời Chúa Giê-su còn tại thế. 

Quý cụ này thuộc loại bậc thầy về khoa xét đoán. Nhân vật thời đó bị quý cụ “soi kèo” kỹ nhất chính là Đức Giê-su. 

Trong ba năm thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng, bất cứ nơi nào có sự hiện diện của Đức Giê-su, lập tức nơi đó có những khuôn mặt cú vọ của quý cụ Pha-ri-sêu và kinh sư, ngay lập tức.

Họ đến để nghe Ngài giảng dạy ư! Thưa không, họ đến để soi mói từng lời nói lẫn việc làm, không chỉ của Đức Giê-su, nhưng còn của cả các người môn đệ của Ngài.

Nhóm Pharisêu và kinh sư soi mói Ngài về đủ mọi phương diện. Khi thì về thân thế gia đình. Lúc thì về cách thức ăn chay. Lúc khác thì về cách thức giữ luật ngày sa-bát. Có lúc, thật đúng là một nhóm người chuyên soi xét, ngay cả tập tục “rửa tay” trước khi ăn, họ cũng không buông tha Ngài. Và chính sự việc này, Đức Giê-su đã dạy cho họ một bài học để đời. Câu chuyện được ghi lại trong Tin Mừng thánh Mác-cô.

**
Vâng, câu chuyện được kể rằng: một hôm, có một nhóm người Pharisêu và kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Được biết, họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến. 

Đến với Đức Giêsu để “thọ giáo” những lời giảng dạy của Ngài ư? Lầm to! Họ đến là để soi xét Ngài.

Hôm đó, khi vừa “soi” thấy vài môn đệ của Đức Giêsu “dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa”, những người Pharisêu và kinh sư không bỏ lỡ cơ hội, họ tấn công Đức Giê-su bằng một câu hỏi mỉa mai, rằng: “sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa”.

Dựa vào những gì “truyền thống của tiền nhân” đã dạy: “không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận, thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn…” họ nghĩ rằng, Đức Giê-su sẽ không thể bào chữa trước việc các môn đệ của mình vi phạm tập tục “rửa tay”.

Vâng, theo cái nhìn bình thường, hiệp một, nếu được phép nói như thế, Thầy và trò Đức Giê-su thua một quả penalty.

Thật ra thì, những người Pha-ri-sêu và kinh sư đã lầm. Đức Giê-su, Ngài đã được biết đến như là “một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến” cớ gì lại không biết “truyền thống của tiền nhân”!

Nói tới việc thực thi truyền-thống-của-tiền-nhân, thì đây, “Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua… như người ta thường làm trong ngày lễ”, không là việc thực thi truyền thống của tiền nhân, sao?

Không phải Đức Giêsu không biết đến luật rửa tay. Đó chỉ là “tập tục” và tập tục này chỉ dành cho các thầy Tư Tế với mục đích là tẩy rửa các ô uế về lãnh vực tôn giáo để các Tư Tế xứng đáng thờ phượng Chúa.

Còn về lề luật ư! Vâng, Đức Giê-su đã có lời tuyên bố rằng “Ta đến không phải là để bải bỏ (luật), nhưng là để kiện toàn”.

Tất nhiên, lề luật mà Đức Giêsu nói đến phải là những lề luật đã được Thiên Chúa đặt ra và đã được môi miệng ông Môsê công bố. Nói cách khác, đó chính là “Mười điều răn của Đức Chúa Trời”. 

Vâng, có lẽ quý ông Pharisêu cũng như các kinh sư đã quên lời “tiền nhân” của họ là ông Môsê truyền dạy rằng “anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em” (Đnl 4, 2).

Quên lời tiền nhân Môsê, những người Pharisêu và các kinh sư, hôm đó, đánh đồng “điều răn của Thiên Chúa” và “truyền thống của người phàm”. Họ xem “truyền thống của tiền nhân” như là những việc bắt buộc, bắt buộc mọi con dân Thiên Chúa phải tuân giữ.

Trước mặt nhóm Pha-ri-siêu, Đức Giê-su lớn tiếng nói: “Các ông gạt bỏ điều răn của Chúa, mà duy trì truyền thống người phàm”. Ngài còn nói: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông”.

Sau đó, Ngài đã gọi nhóm người Pharisêu và các kinh sư như là “những kẻ đạo đức giả”… một thứ đạo đức đầu môi chót lưỡi, đúng như lời của ngôn sứ Isaia, có nói: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý của chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”.

Hôm đó, Đức Giê-su đã dạy cho họ một bài học để đời, không chỉ là một bài học về sự xét đoán mà còn về lòng đạo đức và tôn thờ Thiên Chúa cách đích thật.

Đức Giê-su đã dạy gì? Thưa, trước hết Ngài nói: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ô uế. Ai có tai nghe thì nghe”.

Và đây Đức Giê-su có lời dạy tiếp, rằng: “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ô uế”. (Mc 7, 21-23).

***
Nói về sự xét đoán, đừng quên, Đức Giê-su đã phán dạy rằng: “Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng bị Thiên Chúa xét đoán như vậy”. 

Còn nói tới việc tôn thờ Thiên Chúa cách đích thật ư! Vâng, lời Chúa qua miệng lưỡi ngôn sứ Hô-sê, dạy rằng: “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu” (x.Hs 6, 6).

Thế nên, đối với chúng ta hôm nay, là một tín hữu Công Giáo, sống đức tin, không chỉ là: tham dự thánh lễ, tham dự bàn tiệc Thánh Thể , đọc kinh cầu nguyện, lãnh nhận Bí Tích hòa giải v.v… nhưng còn phải làm thế nào để làm cho “…Đời ta là thánh lễ nối dài”. Làm thế nào để “Đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi”, và cuối cùng là hãy “sống sao để thành chứng nhân”.

Làm thế nào để làm cho “…Đời ta là thánh lễ nối dài. Đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, và sống sao để thành chứng nhân?”

Thưa, có rất nhiều cách, một trong những cách dễ thực hiện nhất, đó là: hãy thực hiện lời khuyên của tông đồ Giacôbê. Ngài đã khuyên rằng “anh em nên biết rằng: mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận, vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa” (x.Gc 1, 19-20).

Tại sao chúng ta lại chọn lời khuyên này? Thưa, là bởi, khi “mau nghe, chậm nói”, chúng ta sẽ biểu lộ được “sự hiền lành, tính nhịn nhục, lòng vị tha” của chính mình, một minh chứng “đời ta (đã) là thánh lễ nối dài”.
 
Khi chúng ta “khoan giận” có phần chắc một nguồn suối của lòng thương xót sẽ trào dâng trong tâm hồn ta. Và đó… đó chính là đòn bẩy để chúng ta “đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi”. Và cuối cùng, khó có thể phú nhận, qua việc “thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa” chúng ta đã vẽ lên khuôn mặt mình, một khuôn mặt người chứng nhân của Đức Ki-tô.

Vâng, Thiên Chúa muốn “tình yêu hơn của lễ”. Nói theo cách nói của Lm Charles E.Miller, đó là: “Thước đo chính xác cho lòng đạo đức của chúng ta không phải là những gì ta làm trong thánh lễ, mà là cách ta xử sự ngoài đời”. Quả là phải như thế.

Trong thánh lễ chúng ta lớn tiếng ca nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa”. Thì, trong cuộc sống thường nhật, chúng ta phải là khí cụ bình an của Ngài: “Để đem yêu thương vào nơi oán thù. Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi trang chấp… Đem niềm vui đến chốn u sầu”...

Nói tắt một lời, của lễ đẹp lòng Thiên Chúa nhất, đó là “sống Lời Chúa”. Vâng, tông đồ Gia-cô-bê cũng có lời khuyên như thế, ngài nói: “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.” (x.Gc 1, 22).

Sống đức tin như thế, đó là chúng ta đã tôn thờ Thiên Chúa cách đích thật. Sống đức tin như thế, nếu ngay hôm nay, Đức Giê-su có trở lại, hãy tin, sẽ chẳng bao giờ Ngài gọi chúng ta “là những kẻ đạo đức giả”, hoặc là những kẻ tôn thờ Chúa bằng “chót lưỡi đầu môi”.

Vâng, muốn được Chúa không gọi chúng ta như thế, hãy nhớ Lời Người đã truyền dạy: “Vì Ta muốn tình yêu, chứ không cần hy lễ”. 

Petrus.tran

Chớ thờ phượng bằng chót lưỡi đầu môi.

 

Chúa Nhật XXII – TN – B

Phán xét hay xét đoán là một thói xấu. Là thói xấu, thế mà,trong cuộc sống thường nhật, có ai trong chúng ta lại không hơn một lần xétđoán một ai đó.

Xét đoán nhẹ thì bất quá chỉ để lại nơi người bị xét đoán mộtchút bực bội, khó chịu. Xét đoán nặng thì thật là kinh khủng. Người bị xét đoáncó thể thân bại danh liệt, có thể mất đi cả một tiền đồ tương lai.

Đúng là vậy. Hồi trước 1975 tại Đà Nẵng, một gia đình có baanh em xin đi tu. Bên cạnh nhà cũng có một cậu xin đi tu. Đi tu hồi đó, trước hếtphải thi, thi văn hóa lớp đệ thất (lớp sáu bây giờ), nếu đậu mới được vào tiểuchủng viện.

Ba anh em nhà kia, lần lượt mỗi năm anh em họ đều thi đậu. Riêng cậu emhàng xóm, thi rớt. Thi rớt có nghĩa là không được “đi tu”. Thế là, cha của cậuem này, “quê độ” sao đó, đi rêu rao với mọi người rằng: “Ối giời! cha chúng nócho chúng nó đi tu chẳng qua là để ăn bám Giáo Hội”

Ghét, ganh tỵ… ông ta mới đưa ra lời xét đoán ác ý, như thế. Chứthực ra, gia đình ba anh em đó đâu có nghèo. Cha là trung sĩ, lương một vợ sáu con, giàu thì không giàu, nhưng đủ sức nuôi con ăn học thành tài.

Này nhé, học thì học trường Văn Hóa Quân Đội, miễn phí. Lươngthực, thực phẩm thì có “quân tiếp vụ”, rẻ rề. Đó là chưa nói đến lãnh phụ cấp phụ trộihàng tháng, gồm có: dầu ăn, đồ hộp v.v… Thế thì, xin đi tu là đi tu chứ liênquan gì đến việc ăn bám giáo hội!

Thật ra, nếu có “bám” là bám vào một nơi mà linh mục và tusĩ  chính là những “ông thầy” đầy kiến thứcvà học vấn, đấy thôi.Quý phụ huynh thời đó cho con em mình đi tu, thường nói: “chocháu đi tu, nếu không 'đỗ cụ', thì cũng lĩnh hội được một nền học vấn tốt”.

Thiệt là vậy đó. Có anh nào "ta ru", sống cuộc sống ngoài đời mà không học giỏi! Sinh ngữ Anh - Pháp khỏi chê. Dân seminary nha. 

Trở lại ba chàng ngự lâm pháo thủ đi tu.  Khi những lời xét đoán đến tai ba chàng. Người anh cả (anh hai) cứ "suy đi nghĩ lại" lời xét đoán đó, mãi cho đến một hôm, anh ta vào gặp cha giám đốc chủng viện và nói: "con xin về". Người thứ ba thì "nửa đường đứt gánh". Con chàng thứ hai (anh ba) thì ai nói gì mặc kệ, "lạc đà ta cứ đi". Anh ta đã đi tới đích. Cái đích hôm nay là linh mục chánh xứ mới ghê chứ. 

Dạ, nhiều chuyện chút xíu. Chỉ chút xíu thôi, nếu chúng ta nghe Robert Southy nói: "Những người vội vã xét đoán dựa trên bề ngoài hiếm khi thấy được bản chất sự việc". 

Ngài Robert Southy nói rất đúng. Điển hình cho loại người này chính là quý cụ Pha-ri-sêu và kinh sư vào thời Chúa Giê-su còn tại thế. 

Quý cụ này thuộc loại bậc thầy về khoa xét đoán. Nhân vật thời đó bị quý cụ "soi kèo" kỹ nhất chính là Đức Giê-su. 

Trong ba năm thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng, bất cứ nơi nào có sự hiện diện của Đức Giê-su, lập tức nơi đó có sự hiện diện của nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư. 

Họ đến để nghe Ngài giảng dạy ư! Thưa không, họ đến để soi mói từng lời nói lẫn việc làm, không chỉ của Đức Giê-su, nhưng còn của cả các người môn đệ của Ngài.

Nhóm Pharisêu và kinh sư soi mói và xét đoán Ngài về đủ mọi phương diện. Khi thì về thân thế gia đình. Lúc thì về cách thức ăn chay. Lúc khác thì về cách thức giữ luật ngày sa-bát. Có lúc, thật đúng là một nhóm người chuyên soi xét, ngay cả tập tục “rửa tay” trước khi ăn, họ cũng không buông tha Ngài. Và chính sự việc này, Đức Giê-su đã dạy cho họ một bài học để đời.

Vâng, câu chuyện được kể rằng: một hôm, có một nhóm người Pharisêu và     kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu.     Được biết, họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến. Đến với Đức Giêsu để     “thọ giáo” những lời giảng dạy, của Ngài?  Lầm to!  Họ đến là để soi xét Ngài.

Hôm đó,  khi vừa “soi” thấy vài môn đệ của Đức Giêsu "dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa”,  không bỏ lỡ cơ hội, những người Pharisêu và kinh sư không bỏ lỡ cơ hội,  họ tấn công Đức Giê-su bằng một câu hỏi mỉa mai, rằng: “sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền           nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa”.

Dựa vào những gì “truyền thống của tiền nhân” đã dạy: “không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận, thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn…” họ nghĩ rằng, Đức Giê-su sẽ không thể bào chữa trước việc các môn đệ của mình vi phạm luật “rửa tay”.

Vâng, theo cái nhìn bình thường, hiệp một, nếu được phép nói như thế, Thầy và trò Đức Giê-su thua một quả penalty.

Thật ra thì, những người Pha-ri-sêu và kinh sư, đã lầm. Đức Giê-su, Ngài đã được biết đến như là “một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến” cớ gì lại không biết “truyền thống của tiền nhân”?

Nói tới việc thực thi truyền-thống-của-tiền-nhân, thì đây, “Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua… như-người-ta-thường-làm trong ngày lễ”, không là một điển hình sao?

Không phải Đức Giêsu không biết đến luật rửa tay. Đó chỉ là “tập tục” và  tập tục này chỉ dành cho các thầy Tư Tế với mục đích là tẩy rửa các ô uế về lãnh vực tôn giáo để các Tư Tế xứng đáng thờ phượng Chúa.

Còn về lề luật ư! Vâng, Đức Giê-su đã có lời tuyên bố rằng “Ta đến không phải là để bải bỏ (luật), nhưng là để kiện toàn”. Tất nhiên, lề luật mà Đức Giêsu nói đến phải là những lề luật đã được Thiên Chúa đặt ra và đã được môi miệng ông Môsê công bố. Nói cách khác, đó chính là “Mười điều răn của Đức Chúa Trời”. 

 Vâng, có lẽ quý ông Pharisêu cũng như các kinh sư đã quên lời “tiền nhân” của họ là ông Môsê truyền dạy rằng “anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em” (Đnl 4, 2).

Quên lời tiền nhân Môsê, những người Pharisêu và các kinh sư, hôm đó, đánh đồng “điều răn của Thiên Chúa” và  “truyền thống của người phàm”. Họ xem “truyền thống của tiền nhân” như là những việc bắt buộc, bắt buộc mọi con dân Thiên Chúa phải tuân giữ.

Trước mặt nhóm Pha-ri-siêu, Đức Giê-su lớn tiếng nói: “Các ông gạt bỏ điều răn của Chúa, mà duy trì truyền thống người phàm”. Ngài còn nói: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông”.

Sau đó, Ngài đã gọi  nhóm người Pharisiêu và các kinh sư như là “những kẻ đạo đức giả”… một thứ đạo đức đầu môi chót lưỡi, đúng như  lời tiên tri của ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý của chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”.

Hôm đó,  Đức Giê-su đã dạy cho họ một bài học để đời,  không chỉ là một bài học về sự xét đoán mà còn về lòng đạo đức và tôn thờ Thiên Chúa cách đích thật.

Đức Giê-su đã dạy gì? Thưa, trước hết Ngài nói: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ô uế. Ai có tai nghe thì nghe”.

Và đây chính là lời Đức Giê-su dạy, rằng: “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ô uế”.(Mc 7, 21-23).

***  Nói về sự xét đoán,  đừng quên, Đức Giê-su dạy rằng: “Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng bị Thiên Chúa xét đoán như vậy”. 

Còn nói tới việc tôn thờ Thiên Chúa cách đích thật ư! Vâng, lời Chúa qua miệng lưỡi ngôn sứ Hô-sê, dạy rằng: “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu”(x.Hs 6, 6)

Thế nên, đối  với chúng ta hôm nay, là một Ki-tô hữu, sống đức tin, không chỉ là: tham dự thánh lễ,  tham dự bàn tiệc Thánh Thể , đọc kinh cầu nguyện, lãnh nhận Bí Tích hòa giải v.v… nhưng còn phải làm thế nào để làm cho “…Đời ta thành thánh lễ nối dài”. Làm thế nào để “Đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi”, và cuối cùng là để “ta sống sao để thành chứng nhân”.Làm thế nào để làm cho “…Đời ta thành thánh lễ nối dài. Đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để thành chứng nhân?”

Thưa, có rất nhiều cách, một trong những cách dễ thực hiện nhất, đó là: hãy thực hiện lời khuyên của tông đồ Giacôbê.  Ngài đã khuyên rằng “anh em nên biết rằng: mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận, vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa” (x.Gc 1, 19-20).

Tại sao chúng ta lại chọn lời khuyên này? Thưa, là bởi, thực thi lời khuyên này, chúng ta chứng tỏ cho mọi người thấy một cách rõ nét “sự hiền lành, tính nhịn nhục, lòng vị tha” của chính mình, một dấu chỉ làm cho “đời ta thành thánh lễ nối dài”, một phương cách để chúng ta “đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi”, và cuối cùng, nói lên được hình ảnh một người chứng nhân, chứng nhân của Thiên Chúa.

Vâng, sống đức tin như thế, đó là cách chúng ta tôn thờ Thiên Chúa cách đích thật. Sống đức tin như thế, nếu ngay hôm nay, Đức Giê-su có trở  lại, hãy tin, sẽ chẳng bao giờ Ngài gọi chúng ta “là những kẻ đạo đức giả”, hoặc là những kẻ tôn thờ Chúa bằng “chót lưỡi đầu môi”.

Petrus.tran

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chủ Nhật, 15 tháng 8, 2021

Chúng ta chỉ phụng thờ CHÚA

 “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.”



Chúa Nhật XXI – TN – B

Chúng ta chỉ phụng thờ CHÚA

Albert Camus có nói: “Cuộc sống của con người là tập hợp của những lựa chọn”. Thật đúng là vậy. Có ai trong chúng ta, lại không hơn một lần sử dụng quyền tự do lựa chọn, cho cuộc sống riêng tư của mình, nhỉ!

Này nhé, về mặt thân xác, vừa mới thức giấc thôi, ta đã nghĩ đến việc lựa chọn, ta sẽ nghĩ: sáng nay điểm tâm món gì, rồi uống gì đây! Hôm nay, đi làm ta sẽ mặc kiểu quần áo gì? Chiều về, ta ăn cơm nhà hay đi restaurant? Rồi sau đó, ta sẽ nhâm nhi café ở đâu nhỉ! Vâng, là cả một núi cho sự lựa chọn.

Ngoài vấn đề thân xác, chúng ta còn phải nghĩ tới vấn đề tinh thần. Món ăn tinh thần của ta hôm nay là gì? Một game show hay một bộ phim truyền hình nhiều tập? Livestream trên facebook hay chat trên zalo?

Chọn lựa một cái gì đó cho thân xác và tinh thần nào đã phải là xong. Chúng ta (nếu không phải là người vô thần) còn có những lựa chọn cho phần tâm linh, đó là lựa chọn đón nhận một niền tin, chấp nhận một chân lý.

Đấy… đấy mới là những lựa chọn khó khăn nhất. Khó khăn là bởi, đôi khi những sự lựa chọn này, nghe thì có vẻ “nghịch nhĩ”, nghĩ thì quả thật là khó hiểu… Ví dụ: “Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi”… Chúa ơi! thật khó hiểu…

Tuy vậy, có những điều nghe thật khó lọt tai, ấy thế mà cũng có người chấp nhận. Chúng ta thử nghe: “Ai bảo chăn trâu là khổ. Chăn trâu sướng lắm chứ. Ngồi mình trâu, phất ngọn cờ lau. Và miệng hát nghêu ngao…” Sướng thật không! Với “em bé quê”, thì rất giản dị, em chấp nhận, chấp nhận vì đó là niềm vui và hạnh phúc, vì đó là chân lý cho một cuộc sống bình dị, cho bản thân của em ấy.

Chọn lựa một niềm tin, đón nhận một chân lý để được “sống muôn đời”, hạnh phúc hơn cả hạnh phúc của “em bé quê”, đi chứ! Ấy thế mà… thế mà không ít người đã từ chối, từ chối niềm tin và chân lý đó. Họ bỏ đi không tiếc nuối. Sự kiện này xảy ra hơn hai ngàn năm xa trước đó. Và, đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gio-an. (x.Ga 6, 54a.60-69).

**
Câu chuyện được kể lại, rằng: hôm đó, Đức Giê-su cùng với các môn đệ đến Ca-phác-na-um. Tại đây, Ngài đã có một bài diễn từ, bài diễn từ nói về đời sống siêu nhiên, một đời sống mà con người đừng quá chú trọng đến “lương thực mau hư nát”, nhưng hãy quan tâm đến “lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.

Không để cho mọi người đợi chờ, Đức Giê-su tiếp tục lên tiếng nói: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói, ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”.

Chỉ cần một cử động của tâm hồn: đến và tin. Đến và tin, tin rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Đức Giê-su đã tuyên phán như thế. (x.Ga 6, 51).

Được sống và được sống muôn đời. Vâng, với tâm hồn đơn sơ như “em bé quê”, có thể em ấy sẽ tin. Nhưng với người Do Thái xưa, họ không tin. Hôm ấy, họ đã “tranh luận sôi nổi”. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”

Hôm ấy, bất chấp những lời tranh luận, Đức Giê-su tiếp tục quả quyết, rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống trong mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống” (x.Ga 6, 53-55).

Vâng, có thể nói, lời tuyên bố của Đức Giê-su đã làm cho tất cả cử tọa hôm đó, rất khó khăn trong việc đưa ra một sự lựa chọn. Tại sao vậy? Thưa, là bởi, đối với người Do Thái, huyết máu là thứ cấm kỵ, luật Lêvi dạy rằng “bất cứ người nào thuộc nhà Israel… ăn bất cứ thứ huyết nào, thì Ta sẽ quay mặt lại phạt kẻ ăn huyết và sẽ khai trừ khỏi dân nó… Không một ai trong các ngươi được ăn huyết” (Lv 17, 10…12).

Có phần chắc Đức Giê-su biết điều luật này. Biết, nhưng Ngài vẫn lớn tiếng công bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy… Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”.

Hôm ấy, Đức Giê-su còn nói: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy”. (x.Ga 6, 57).

Kẻ-ăn-tôi… Vâng, quá rõ ràng để mọi người hiểu rằng: Đức Giê-su không úp mở, không nói theo kiểu “nghĩa đen – nghĩa bóng”. Và đó là lý do khiến “nhiều môn đệ của Người lên tiếng nói: Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”

Biết… “biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy”, Đức Giê-su bảo các ông: “Điều đó anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?”

Bao nhiêu năm đi theo Đức Giê-su là biết bao lần “được thấy những điều lớn lao” Ngài đã làm, thế mà giờ đây… giờ đây chỉ vì “chưa” thấu hiểu nổi mầu nhiệm bánh hằng sống, các ông đã vội xì xà xì xầm… rõ tệ!

Sau những lời xầm xì, “nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”, không đi theo Người, bởi các ông không hiểu lời Thầy Giê-su nói. “Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”. Đức Giê-su đã nói với các môn đệ của mình, như thế.

Nhiều môn đệ đã rút lui, nhưng Nhóm Mười Hai không rút. Ở lại là một thử thách, và thử thách đã được Đức Giê-su gửi đến các ông. Hôm ấy, Ngài đã gửi thử thách đến các ông, qua một câu hỏi, hỏi rằng: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”

Mười hai đôi mắt nhìn nhau. Ông nọ nhìn ông kia như muốn nói “ông đại diện nhóm trả lời đi!”. Vâng, đó chỉ là sự tưởng tượng (của tôi).

Hôm ấy, trả lời câu hỏi của Thầy, chính là ông Simon Phê-rô. Ông ta đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.”

Ông Phê-rô đã có một lựa chọn, không phải là một sự lựa chọn mù quáng, nhưng là một sự lựa chọn nhờ ông “tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. (x.Ga 6, 69).

***
Tông đồ Phê-rô đã có một sự lựa chọn hoàn hảo.

Nhận định cho lời tuyên xưng của tông đồ Phê-rô, Lm Charles E. Miller có lời chia sẻ: “Không ai áp đặt lời tuyên xưng đức tin này lên miệng Phê-rô. Ông đã lãnh nhận một ơn (đặc biệt), và tự nguyện đáp lại. Ông đã quyết định liên kết chặt chẽ với Đức Ki-tô đến độ luôn một lòng một trí với Người, tuy về sau có đôi lúc nhất thời vấp ngã.”

Đúng, tông đồ Phê-rô “đã liên kết chặt chẽ với Đức Ki-tô”. Ông Phê-rô đã liên kết với Đức Giê-su ngay từ khi quyết định “bỏ chài lưới mà đi theo Ngài”.

Chính sự liên kết chặt chẽ với Đức Giê-su đã giúp ông Phê-rô (sau này) chữa lành một người què ngay bên “cửa Đền Thờ gọi là cửa đẹp” (x. Cv 3, 2-9).

Cuối cùng, cũng theo lời chia sẻ của Lm Charles E. Miller: “Phê-rô nói mình muốn có một mối liên hệ yêu thương, vĩnh viễn, dựa vào lòng trung tín với Đức Ki-tô”.

****
Với những diễn tiến trong cuộc tranh luận giữa Đức Giê-su với những người Do Thái tại Ca-phác-na-um năm xưa, không có gì phải bàn cãi về niềm tin của chúng ta hôm nay (là tín hữu Công Giáo), vào Bí Tích Thánh Thể. Không gì có thể ngăn cản chúng ta tin, tin rằng: “Bánh và Rượu” sau lời truyền phép của linh mục chủ tế, sẽ trở thành “Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô”.

Thánh Thể là một ân sủng Đức Ki-tô ban cho chúng ta. Đức Giê-su đã chẳng từng nói: “Kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống”, đó sao!

Nhờ Chúa Giê-su mà được sống. Thế nên, chúng ta phải có một sự lựa chọn hoàn hảo.

Chúng ta không thể: “…làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ”.

Chúng ta không thể: “…vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền bạc được”. (x.Mt 6, 24).

Chúng ta không thể dạy con em mình “Chớ giết người”, nhưng rồi vợ chồng ta lại “tay đan tay nhịp bước đi… (phá thai)”.

Chúng ta không thể dạy con em mình “Chớ làm sự dâm dục”, nhưng rồi mỗi khi “sương sương” rồi, chúng ta lại tìm đến… đến đâu thiết nghĩ không cần nói ra ở đây, nhỉ!

Chúng ta không thể dạy con em mình: “Chớ lấy của người”, nhưng rồi trong sở làm chúng ta lại “ăn cắp giờ công” của công ty. Đại loại như đi trễ về sớm, chẳng hạn.

Bí Tích Thánh Thể được gọi là Bí Tích Tình Yêu. Mà, trong tình yêu thì cần gì nhỉ! Chẳng phải là tự nguyện, liên kết chặt chẽ, yêu thương, trung tín và vĩnh viễn, đó sao! Chẳng phải là “tuy hai mà một” đó sao!

Và đó là lý do khi đã chọn lựa việc đi theo Chúa, chúng ta cũng phải sống như thế, như những gì tình yêu đòi hỏi. Thế mới được gọi là một sự lựa chọn hoàn hảo. Phải hoàn hảo, như Gio-suê xưa, rất hoàn hảo cho việc chọn lựa niềm tin, ông đã nói: “Chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa”.

Vâng, đó là điều chúng ta nên nói: “Chúng con chỉ phụng thờ Chúa”.

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...