Thứ Sáu, 28 tháng 1, 2022

Đừng lôi Chúa ra khỏi cuộc đời mình

 Chúa Nhật – IV – TN – C

Đừng lôi Chúa ra khỏi cuộc đời mình

Kỳ thị là gì? Thưa: “Kỳ thị là sự phân biệt đối xử đối với một người hay một nhóm người, một vùng miền hay một quốc gia có thể xác định được.” (nguồn: internet).

Nói tới sự kỳ thị, quả thật đây là căn bệnh trầm kha trong suốt chiều dài lịch sử con người. Ở đâu có con người sinh sống, ở đó có sự kỳ thị. Người ta kỳ thị chủng tộc. Người ta kỳ thị tôn giáo. Người ta kỳ thị ngôn ngữ, vùng miền, v.v…

Gần đây, do dịch bệnh Covid 19, chúng ta có thêm một ‘kiểu” kỳ thị mới. Đó là, người ở “vùng đỏ” là nơi dịch bệnh hoành hành, đi về “vùng xanh” là nơi dịch bệnh đã được khống chế, bị kỳ thị.

Đây là một kiểu kỳ thị làm cho người bị kỳ thị không khỏi “buồn hiu hắt buồn”. Làm sao không hiu-hắt-buồn cho được, khi ngay cả chính người thân trong gia đình cũng có những lời lẽ đầy tính chất kỳ thị, với nhau.

Thì đây, mấy ngày hôm nay, Việt Nam chuẩn bị đón Tết (âm lịch). Nhiều người dân ở nông thôn lên những thành phố lớn như : Saigon, Hà Nội, Đà Nẵng, v.v… để mưu sinh, nay trở về quê thì bị kỳ thị. Kỳ thị vì đã sinh sống ở những thành phố nhất nhì về sự hoành hành dịch bệnh Covid 19.

Nhiều tin nhắn trên Zalo, trên SMS với lời lẽ rất kỳ thị, rất bạc bẽo, đại loại như: “Năm nay đừng về ăn tết nha. Kẻo lại mang cô-vi về nhà”. Hoặc là “năm nay ở ‘trển’ đi, về lại lây lan cho gia đình, cha mẹ, anh em, bà con hàng xóm” v.v… và v.v… (Thế là năm nay “mình ên” ở lại sè-goòng ăn tết!)

Buồn chứ! Bị những người thân thuộc như cha mẹ, anh em, bạn hữu nói những lời lẽ như thế với mình, cớ sao không buồn!

Vâng, chỉ những người trong cuộc mới cảm nhận thấm thía những lời lẽ đầy kỳ thị như thế. Đức Giê-su, cũng đã có lần là “người trong cuộc”. Một lần nọ, Ngài về thăm “quê nhà”, và cũng bị “kỳ thị, bạc bẽo”.

Hồi đó, Đức Giê-su không bị kỳ thị, bạc bẽo vì Covid 19, nhưng vì bà con hàng xóm của Ngài “không chấp nhận đứa con quê hương này làm Đấng Messia của họ”. “Con bác thợ” mà đòi làm Đấng Messia sao! Hôm ấy, họ đã định giết Ngài. Sự kiện này được ghi lại trong Tin Mừng Thánh Luca. (Lc 4, 21-30).

**

Câu chuyện bắt đầu bởi những ước mong và khao khát. Vâng, như chúng ta được biết, ước mong và khao khát về một Đấng Messia sẽ đến, đó là ước mong và khao khát của dân tộc Israel, xưa. Đấng Messia đó sẽ là ai? Với chúng ta hôm nay, câu trả lời chính là Đức Giê-su Ki-tô.

Thế nhưng, với người Do Thái sống cùng thời Đức Giê-su, dẫu cho đã được Ngài khẳng định, rằng người đó chính là tôi, họ cũng không tin, không chấp nhận. Thật vậy, điều đó đã xảy ra trong một lần Ngài trở về Nazareth, quê hương của mình.

Tại sao dân Do Thái sống cùng thời với Ngài nói chung, và người cùng quê hương Ngài nói riêng, không tin, không chấp nhận?

Thưa, chuyện là thế này: Sau bao nhiêu ngày rong duỗi đường gió bụi, “đi khắp miền Galile… giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh”, Đức Giê-su trở về Galile. Về Galile, “…Đức Giê-su đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng”.

Hôm đó, trùng dịp là ngày sa-bát, và theo truyền thống cha ông đã truyền dạy: “…ngày thứ bảy là ngày sabat kính ĐỨC CHÚA”, Đức Giê-su đã vâng lời: “Người vào hội đường”. Hội đường là nơi người Do Thái nhóm họp vào ngày sabat.

Buổi nhóm họp hôm ấy, người ta đã “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”.

Đức Giê-su đã nói gì khiến cho mọi người phải trầm trồ lên như thế! Xin thưa, khi được mời lên đọc Sách Thánh, Ngài đã đọc một đoạn trích sách ngôn sứ Isaia.

Lời ngôn sứ Isaia như một bản “tình ca”, một bản tình ca nói lên lòng thương xót của một Thiên Chúa là tình yêu. Bản tình ca đã được chàng nghệ sĩ Giê-su hát vang lên trong hội đường và đã khiến cử tọa ngất ngây niềm hạnh phúc: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”

Vâng, thánh Luca không nói gì cả, nhưng chúng ta có thể tin, tin rằng toàn thể cộng đồng dân Chúa hiện diện trong hội đường hôm ấy rất ngất-ngây-hạnh-phúc khi Đức Giê-su tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.

Lời tuyên bố của Đức Giê-su “chắc như đinh đóng cột”. Cử tọa, như đã nói ở trên “tán thành và thán phục”.

Nhưng buồn thay! Những lời tán thành và thán phục đó, không đầy ba mươi giây, ngay lập tức vỡ tan… vỡ tan như bọt sóng. Vì sao ư! Thưa, thánh Luca cho biết: “Họ bảo nhau: Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” Một câu hỏi nhuốm hơi hám sự kỳ thị.

“Ông Giu-se” là ai! Thưa, là cha Đức Giê-su… và là “bác thợ”. Đức Giê-su là con-bác-thợ. Một ông Giuse là bác thợ, sao lại có thể sinh ra một ông Giêsu, được “Thiên Chúa xức dầu tấn phong” như chính ông ta đã nói “Hôm nay đã ứng nghiệm”!

Thế là, toàn thể cử tọa trong hội đường hôm đó, kỳ thị Đức Giê-su ra mặt. Họ kỳ thị về gia thế của Đức Giê-su. Kỳ thị về gia thế, nhưng có vẻ như, họ vẫn kỳ vọng rằng, những gì Ngài đã làm tại Caphacnaum, Ngài cũng sẽ làm tại quê nhà.

Đức Giê-su “đi guốc trong bụng” họ. Và, Ngài đã không đáp ứng. Tại sao? Thưa, thánh Luca không nói rõ lý do, nhưng thánh Mác-cô cho biết: “vì họ không tin”.

Quả là thật đáng tiếc, đáng tiếc là bởi, bản tình ca yêu thương của Đức Giê-su đã bị biến thành bản “hận ca”. Mà, quả thật là vậy. Không đáp ứng kỳ vọng cho họ, họ đã nhìn Ngài với đôi mắt hận thù. Vâng, rất căm thù khi Đức Giê-su nói: “Tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà góa ở trong nước Israel, thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-ma, người xứ Si-ry thôi.” (x.Lc 4, 25-27).

Lời Đức Giê-su nói để lại một kết thúc buồn. Vâng, rất buồn, sau khi nghe Đức Giê-su nói: “…mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.” (x.Lc 4, 28-29).

Thế nhưng, đâu có “dễ ăn”. Hôm đó, Đức Giêsu đã “băng qua giữa họ mà đi”. Hành động của họ, quả đúng như lời Ngài nói: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (Lc 4, 24).

***

Thật đáng tiếc cho cư dân thành Nadarét. Tiếc là bởi họ đã không ý thức đúng về cái gì là giá trị, cái gì là quan trọng trong đoạn Kinh Thánh mà Đức Giêsu đã đọc cho họ nghe.

Cái giá trị và quan trọng đó không nằm ở những phép lạ, không nằm ở những lời thách thức xấc xược rằng, “những gì ông đã làm tại Caphacnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!”.

Cái giá trị và quan trọng đó chính là “Tin Mừng”, một Tin Mừng cho-kẻ-nghèo-hèn, và rằng: Con Một của Người là Đức Giê-su chính là người khai mở cho “năm hồng ân của Chúa”.

Vâng, đó là chuyện năm xưa. Một câu chuyện của hơn hai ngàn năm xa trước đó. Và, chuyện hôm nay… chuyện hôm nay là chuyện gì? Thưa, Đức Giê-su vẫn tiếp tục “vào nhà thờ” trong ngày Chúa Nhật.

Đức Giê-su, qua chúng ta, Ngài vẫn đọc Sách Thánh. (Thánh Thư). Đức Giê-su, qua các linh mục, Ngài vẫn đọc Sách Thánh (Phúc Âm).

Chúng ta được nghe và được đọc. Chúng ta được đọc và được nghe. Được nghe Đức Giê-su, qua các vị linh mục, giảng dạy.

Thế nhưng, liệu chúng ta có như cư dân Nadaret, xưa!

Chúng ta có đón nhận những lời truyền dạy của Ngài, do các vị linh mục giảng dạy trong thánh lễ! Hay chúng ta phớt lờ!

Chúng ta có tán-thành-và-thán-phục về những lời Kinh Thánh truyền dạy! Và đón nhận xem như là “ngọn đèn soi ta bước”, như là “ánh sáng chỉ đường ta đi”! Hay chúng ta quăng “cục lơ”!

Về điều này, nhà bác học lỗi lạc nhất của thế kỷ 20 là A. Einstein thú nhận: “Khi còn bé, tôi đã học cả Kinh Thánh và sách Talmud. Là người Do Thái, nhưng tôi đã bị khuôn mặt sáng ngời của Đức Giê-su Na-da-rét mê hoặc... Chưa ai đọc các sách Tin Mừng mà không cảm thấy sự hiện diện thật sự của Đức Giê-su. Tính cách của Ngài rung lên trong mỗi từ ngữ. Một đời sống như vậy không huyền thoại nào chứa hết được.” (nguồn: 5/phút cho Lời Chúa).

Thật đúng vậy, đã có nhiều người, tâm hồn họ bị “rung lên trong mỗi từ ngữ”, mỗi-từ-ngữ mà Thiên Chúa đã phán, qua Kinh Thánh. Đơn cử một người như điển hình, đó chính là thánh Augustino.

Tâm hồn ngài Augustino đã bị rung lên, rung lên khi đọc đoạn thư của Thánh Phaolô: “Ðừng sống theo dục vọng và lạc thú dâm ô nữa, nhưng hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô” (x.Rm13,14). Và, đó chính là điều mà Augustino đang thao thức. Từ lúc đó trở đi, Augustino bắt đầu sống một đời sống mới.

Thưa quý bạn, quý bạn khi nghe Lời Chúa hay khi đọc Lời Chúa, có bao giờ tâm hồn mình “cũng bị rung lên trong mỗi từ ngữ”! Hãy ao ước đi! Ao ước trong lời cầu nguyện, sẽ có ngày… sẽ có ngày tâm hồn quý bạn cũng-sẽ-bị-rung-lên. Thật đấy!

Thế nên, đã là một Ki-tô hữu, hãy “đón nhận Lời Chúa”, xem đó như là kim chỉ nam cho đời sống đức tin của chúng ta.

Và, nếu chúng ta đã đón nhận “những lời hay ý đẹp” của Chúa, đừng bao giờ thách thức Người qua việc “tán thành” luật hôn nhân đồng tính. Đừng “thán phục” những nhà lập pháp đã thông qua luật tự do phá thai, cũng như những đạo luật trái nghịch với luật Chúa.

Tán thành và thán phục những điều “tồi tệ” nêu trên, có khác nào chúng ta đem Mười Điều Răn Đức Chúa Trời ném vào xọt rác! Tán thành và thán phục những điều tồi tệ nêu trên, có phần chắc, Đức Giê-su cũng sẽ “băng qua” giữa cuộc đời của chúng ta, mà đi.

Ngày nay, trong nhà thờ vào ngày Chúa Nhật, Đức Giê-su vẫn hiện diện với chúng ta, như Ngài đã hiện diện với cư dân Nadaret xưa, vào ngày sabat.

Nói lên điều này để làm gì? Thưa, để chúng ta biết… biết rằng; đây là nơi chúng ta có thể tiếp cận “những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Chúa”, qua phần Phụng Vụ Lời Chúa (Thánh Kinh). Chưa hết… còn nữa. Chúng ta còn được tiếp nhận chính thân thể Ngài, qua Bí Tích Thánh Thể.

Tiếp cận Lời Chúa, tiếp nhận chính thân thể Ngài, chính là chúng ta đã tiếp nhận được Hồng-Ân-Của-Chúa. Hồng ân được Chúa, nói theo cách nói của ngôn sứ Geremi, đó là: được Chúa “ở với (ta) để giải thoát (ta)” (Gr 1…19).

Chúa đã ở với chúng ta để giải thoát chúng ta. Đừng dại dột, vì một lý do vớ vẩn nào đó, chúng ta lại hành động như cư dân Nadaret xưa đã hành động: “lôi Người ra khỏi thành”.

Chúng ta đừng-lôi-Chúa-ra-khỏi-ngôi-làng-tâm-hồn-chúng-ta. Đừng lôi Chúa ra khỏi cuộc đời mình.

Petrus.tran

Thứ Sáu, 21 tháng 1, 2022

Lời Chúa, hôm nay vẫn ứng nghiệm.

 Chúa Nhật – III – TN – C

Lời Chúa, hôm nay vẫn  ứng nghiệm.

Bạn có bao giờ được đọc Sách Thánh?  Đó… đó là một vinh dự, một vinh dự không phải ai cũng có được. Ai sẽ là người được đọc Sách Thánh? Thưa, tham khảo việc sinh hoạt của một vài giáo xứ, đa số người được đọc Sách Thánh đều là những  quý ông  trong Hội Đồng Giáo Xứ. Dường như, bây giờ được gọi là Ban Hành Giáo.      

Ngoài quý ông được đọc Sách Thánh, quý bà và quý cô cũng có được vinh dự này. Quý cô có thể là ca viên trong ca đoàn. Quý bà có thể là thành viên trong hội đoàn, hội “các bà mẹ Công Giáo”, chẳng hạn.         

Cũng có trường hợp người đọc sách Thánh là các em thiếu nhi. Các em này thường là các em trong hội đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể hoặc Hùng Tâm Dũng Chí.

Do Thái giáo cũng có việc đọc Sách Thánh. Việc đọc Sách Thánh được cử hành vào những buổi nhóm họp  ở Hội đường vào ngày Sabat.  Hội đường có một người trưởng nhiệm, người trưởng nhiệm chỉ định người đọc Sách Thánh và mời người có khả năng lên giải thích Kinh Thánh.

Đức Giê-su, trong những ngày còn tại thế, Ngài cũng có vinh dự được mời đọc Sách Thánh.  Sự kiện này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca.(Lc 4, 14-21)

**  

Tin Mừng thánh Luca thuật lại, rằng: “Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở  về miền Ga-li-lê”. Về Ga-li-lê, “Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Ngài sinh trưởng”

Về nơi-Ngài-sinh-trưởng, Đức Giê-su đã chứng tỏ rằng, mình vẫn không quên cội nguồn, mình vẫn không quên bà con hàng xóm, mình vẫn là một người con của làng quê Na-da-rét.

Không quên bà con hàng xóm, Đức Giê-su cũng không quên bổn phận tôn giáo mà cha ông đã truyền dạy. Bổn phận tôn giáo được truyền dạy, đó là đến hội đường nhóm họp vào ngày Sabat. 

Vâng, Đức Giê-su đã đến nhóm họp. Thánh Luca kể rằng: “Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabat”.  

Chẳng biết có phải vì nhờ  “tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận… và được mọi người tôn vinh” hay không!  Hôm ấy, Đức Giê-su được ông trưởng nhiệm hội đường mời “lên đọc Sách Thánh” (Lc 4, …16)

 

 

Tưởng chúng ta cũng nên biết, “Trong hội đường Do Thái xưa, người ta vẫn lần lượt đọc các sách Luật theo cách từ phần này sang  phần khác (lectio continua),  còn các sách Ngôn sứ được đọc theo kiểu chọn lọc (lectio selecta)”. (nguồn: internet)  

Hôm ấy, sau khi ông trưởng nhiệm chọn lọc (chắc là vậy): “Họ trao cho Người cuốn sách Isaia”.

Đứng trên giảng đài, Đức Giê-su “mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã sức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18)

“Đó là Lời Chúa”. Vâng, với nghi thức đọc Sách Thánh ngày nay, sau khi đọc xong, chúng ta sẽ xướng lên như thế. Thời Đức Giê-su, thì không xướng gì cả.

Hôm ấy, đọc xong: “Đức Giê-su cuộn sách lại…” Ơ hay, sao lại “cuộn” mà không “gấp” như chúng ta vẫn làm, ngày nay! 

Vâng, muốn biết tại sao, chúng ta cùng đọc sơ qua tài liệu “việc phát hiện Các Cuộn Sách Biển Chết (The Dead Sea Scrolls)”  “Các Cuộn sách” nha!

“Việc phát hiện Các Cuộn Sách Biển Chết (The Dead Sea Scrolls) lần đầu tiên vào năm 1947 ở Qumran, một ngôi làng nằm ở phía tây bắc Biển Chết, cách Giê-ru-sa-lem khoảng hai mươi dặm về phía đông. Một người chăn trẻ trong khi đi tìm con dê lạc, đã ném hòn đá vào một trong những hang động dọc theo vách đá bên bờ biển và nghe thấy một tiếng vỡ: hòn đá đã làm vỡ một bình gốm chứa các cuộn giấy da và giấy cói, mà sau này người ta đã xác định có niên đại gần hai mươi Thế kỷ. Mười năm tiếp theo và bởi nhiều người tìm kiếm tiếp nối, mười một hang động quanh Biển Chết đã được phát hiện có chứa hàng chục ngàn thủ bản” (nguồn: hockinhthanh.weebly.com)

“…Một bình gốm chứa các cuộn giấy da” vậy là đã rõ, sách được viết trên những mảnh da.  Xem phim Tàu, chúng ta cũng thấy, mỗi khi vị hoạn quan đem chiếu chỉ của vua đến cho ai, vị hoạn quan mở  “cuộn chiếu chỉ” ra công bố, công bố xong, vị hoạn quan “cuộn chiếu chỉ lại”.  

Thế nên, việc Đức Giê-su cuộn-sách-lại không có gì phải ngạc nhiên. Điều ngạc nhiên, đó là khi Ngài “cuộn sách lại trả cho người giúp việc hội đường,  rồi ngồi xuống” thì… thì sao nhỉ! Thưa, “ai nấy trong hội đường chăm chú nhìn Người” (Lc 4, …20)

 

 

Kể cũng lạ! Ngày nay, một ai đó đọc Sách Thánh, đọc xong về chỗ ngồi, có ai “chăm chú nhìn” đâu, phải không, thưa quý vị!  Một suy luận có thể chấp nhận, có thể mọi người chăm chú nhìn Đức Giê-su như là để tự hỏi, tự hỏi rằng: cái anh chàng con-bác-thợ sẽ giải thích như thế nào về đoạn Kinh Thánh mà anh ta vừa mới đọc xong!

Đức Giê-su sẽ giải thích như thế nào ư! Thưa, hôm ấy, Ngài đã nói với mọi người, rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4, 21)

***    

“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Giải thích cho lời tuyên bố của Đức Giê-su, Lm Giu-se Đinh Tất Quý có lời chia sẻ, rằng: “Isaia đã nói lên ơn gọi và sứ mạng của mình. Ông được xức dầu để trở thành ngôn sứ cho những người Do Thái mới thoát khỏi cảnh lưu đày. Ông được sai đi để loan báo thời cùng khốn đã chấm dứt và công bố khai mở một thời kỳ đầy ân sủng và tự do. Ðức Giêsu đã bị đánh động bởi đoạn sách này. Người thấy nó phản ánh chính ơn gọi và sứ mạng của mình. Ðây là một hướng đi mà Người phải theo đuổi, một chương trình hành động mà Người muốn hoàn thành.” (nguồn:

https://tgpsaigon.net/bai-viet/bai-giang-chua-nhat-3-tn-cvideo-53207)

Đúng, Đức Giê-su “đã hoàn thành”. Có rất nhiều nhân chứng, chứng thực Ngài đã hoàn thành điều mà ngôn sứ Isaia công bố.

Thánh Mát-thêu chính là nhân chứng thứ nhất. Ngài Mát-thêu cho biết: “Mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt, Người đã chữa khỏi” (Mt 4, 24)

Nhân chứng thứ hai là ai? Thưa, thánh Mác-cô. Chúng ta cùng nghe ngài Mác-cô kể: “Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ.” (Mc 1, 3)

Chưa hết, còn một nhân chứng nữa, đó là thánh Luca. Ngài Luca ghi lại như sau: “Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu, mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay lên từng bệnh nhân và chữa họ.” (Lc 4, 40)

Đức Giê-su đã hoàn thành ơn gọi và sứ mạng của chính mình, với sức mạnh: “Thần Khí Chúa.”  Vâng, sự thật là vậy. Không ai có thể phủ nhận, quả thật là lời ngôn sứ Isaia đã ứng nghiệm.

 

 

 

Lời ngôn sứ Isaia không chỉ ứng nghiệm vào thời điểm Đức Giê-su còn tại thế, mà còn ứng nghiệm vào thời đại của chúng ta, hôm nay.

Lourdes (Lộ Đức – Pháp). Fatima  (Bồ Đào Nha)… Hãy đến những nơi đó mà xem. Xem và sẽ thấy những  chứng tích, những chứng tích khiến không ít người đã phải “thán phục”, thán phục về những phép lạ chữa lành do quyền năng Thiên Chúa.

La-vang, Trà Kiệu, Fatima (Bình Triệu)… Hãy đến những nơi đó mà xem. Xem để thấy,

“Hồng Ân của Thiên Chúa”  đã tỏ hiện trên đất nước Việt Nam, như thế nào.

Hãy đến những địa danh nêu trên mà xem. Xem để thấy, thấy  rằng : Hôm nay (vẫn) ứng nghiệm lời Kinh Thánh,  lời Kinh Thánh trích trong sách ngôn sứ Isaia.

****

Lời Kinh Thánh trích trong sách ngôn sứ Isaia, vào thời Đức Giê-su còn tại thế, đã ứng nghiệm.  Lời Kinh Thánh trích trong sách ngôn sứ Isaia, vào đầu thế kỷ 20, cũng đã ứng nghiệm.  Lời Kinh Thánh trích trong sách ngôn sứ Isaia, vào ngày mai, ngày mốt, vào những ngày tháng trong tương lai, thì sao nhỉ ! VẪN ứng nghiệm chăng ?

Với nan đề này, Lm. Giuse Đinh Tất Quý có lời suy tư : “Còn chúng ta, khi nghe Chúa Giêsu nói: ‘Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.’ hỏi chúng ta phải có thể nói một câu tương tự như Ðức Giêsu hay không?” Ngài Lm. Quý, trong  nỗi ưu tư, nói tiếp: “Có nhiều đoạn Lời Chúa chẳng được ứng nghiệm bao giờ vì thiếu sự cộng tác của bản thân tôi.

Đúng vậy. Để lời ngôn sứ Isaia hay Lời Chúa, hôm-nay-có-được-ứng-nghiệm hay không,  là tùy thuộc vào mỗi chúng ta. Tùy thuộc chúng ta có trở thành  “cánh tay nối dài của Chúa”, hay không ?

Để trở thành cánh tay nối dài của Chúa, điều này không khó đâu. Không khó, nếu chúng ta chăm-chú-nhìn-Đức-Giêsu.  Không khó, nếu chúng ta chăm chú nghe những gì Ngài đã truyền dạy và đem ra thực hành. Nói, theo cách nói của Đức Maria: “Người bảo gì, (chúng ta) cứ việc làm theo.”

Mà, Đức Giê-su đã bảo gì nhỉ ! Chẳng phải Ngài đã bảo: : Hãy “Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Cho khách đỗ nhà. Chuộc kẻ làm tôi. Chôn xác kẻ chết”, đó sao !

 

 

Đừng quên, những điều Đức Giê-su “bảo”, chính là những điều Ngài sẽ chất vấn chúng ta vào ngày phán xét, đấy!  Đừng để vào ngày đó, chúng ta phải nghe Ngài khiển trách : “Xưa, Ta đói, các ngươi đã không cho ăn. Ta khát, các ngươi đã không cho uống. Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc. Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi chẳng viếng thăm.”

Hãy nhớ, Đức Giê-su còn nói :  “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chinh Ta vậy.” (x.Mt 25, 40)

Mỗi lần chúng ta làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Chúa, chẳng phải chính là lúc chúng ta trở thành cánh-tay-nối-dài-của-Ngài, đó sao!

Xưa, ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Đức Giê-su. Chăm chú nhìn và họ đã nghe được “những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.”

Nay, nếu chúng ta cũng chăm chú nhìn Đức Giê-su. Nói, theo cách nói mạnh mẽ hơn của Lm. Charles E.Miller, nếu chúng ta : “Chiêm ngắm thân thể Đức Ki-tô”, chiêm ngắm với niềm tín thác vào một Đức Ki-tô “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…”,  có phần chắc, chúng ta  sẽ  có được nguồn cảm hứng “dấn thân”, một sự dấn thân như Đức Giê-su đã dấn thân : “đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” Chưa hết, chúng ta sẽ có một động lực, một động lực : “đến… là để phục vụ.”

Dấn thân để phục vụ, dấn thân để mọi người được sống dồi dào, chẳng phải là cách thế làm cho cánh tay của chúng ta, trở thành cánh tay nối dài của Chúa, sao !

Dấn thân để phục vụ, dấn thân để mọi người được sống dồi dào, chính việc dấn thân này, sẽ nói cho cả thế giới biết rằng : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”

Riêng, cá nhân mỗi chúng ta, chúng ta đủ mạnh mẽ  để nói : “Lời Chúa truyền dạy, hôm nay VẪN ứng nghiệm.”

Petrus.tran

 

 

                                                                        

 

 

 

                                                                                                        

Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2022

Có Chúa – Bên Ngài… tại sao lại không, nhỉ!

“Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (x.Ga 2, 5).



Chúa Nhật II – TN – C

Có Chúa – Bên Ngài… tại sao lại không, nhỉ!

Mấy hôm nay lang thang trên mạng, tình cờ thấy có hai bài thánh ca cùng một tựa đề, tựa đề là “Có Chúa là có tất cả”. Một bài ghi: sáng tác Hùng Cường. Một bài ghi: sáng tác Sr. Tê-rê-xa.

Về sáng tác của Hùng Cường, tác giả viết lên những lời mời gọi, mời gọi mọi người hãy đặt cuộc đời mình vào tình yêu của Thiên Chúa. Ca sĩ Lệ Thu, không phải Lệ Thu của thập niên 60-70, nổi danh với ca khúc “mùa thu chết”, nay đã “về với mùa thu”, nói theo cách nói của nhà đạo, cô Cecilia Bùi Thị Oanh (tên cô Lệ Thu) đã về với Chúa ngày 15/01/2021 tại Hoa Kỳ.

Vâng, cô Lệ Thu (mới), với giọng ca thật ấm áp, đã làm cho khán thính giả ấm lòng về một Thiên-Chúa-là- tình-yêu: “Có một người tình đã hiến thân mình chịu chết vì yêu. Có một người tình treo trên Thánh Giá, vì yêu nhân loại. Người đó, chính là Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người chịu chết vì yêu. ĐK: Con xin thành tâm tri ân tình Chúa. Ngài yêu con không bờ không bến… Vì có Chúa là có tất cả! Bên Ngài con no thỏa bình an.”

Còn với sáng tác của Sr. Tê-rê-xa thì sao, nhỉ! Thưa, tác giả đã làm cho mọi người khi nghe, sẽ nhận thức được rẳng: đâu là hạnh phúc, đâu là cứu cánh của đời mình. Vâng, Mỹ Kiều, một cô ca sĩ “nhí” đã trình bày với giọng ca nức nở và đơn sơ: “Chúa thật là tất cả, là cứu cánh của con, là lẽ sống của con, là đường đưa con bước. Chúa thật là tất cả, tình yêu Chúa trao ban, làm no thỏa tâm can, lòng con luôn hoan lạc… ĐK: Có Chúa là có tất cả, là hạnh phúc viên mãn đời ta, là mùa xuân thắm tươi ngàn hoa, là tình yêu mãi luôn đậm đà.”

Nếu có thời gian, quý vị vào YouTube, nghe hai bài thánh ca này, nhé!

Vâng, có thật… có thật có-Chúa-là-có-tất-cả? Bên-Ngài-con-no-thỏa? Có-Chúa-là-có-tất-cả? Là-hạnh-phúc? Là-mùa-xuân-thắm-tươi? Là-tình-yêu-mãi-luôn-đậm-đà?

Thưa, đúng vậy. Hơn hai ngàn năm xa trước đó, có một đôi bạn “ở Cana miền Ga-li-lê” tổ chức tiệc cưới. Bữa tiệc hôm đó “có Chúa” có Chúa Giê-su tham dự, và đôi tân hôn có những giờ phút được “bên Ngài”, thật đúng như lời bài thánh ca, đám cưới của họ thực là mùa xuân thắm tươi, là ngàn hoa hạnh phúc, là tình yêu đậm đà. Và… và thực khách thì “no thỏa tâm can”. Thánh Gio-an, người hân hạnh được tham dự bữa tiệc đó, đã ghi lại trong sách Tin Mừng của mình bữa tiệc cưới này, với tiêu đề: “Tiệc cưới Cana”.

**

Vâng, sự kiện này được thánh Gio-an ghi lại như sau: “Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Ga-li-lê.” (x.Ga 2, 1). “Ga-li-lê nhắc ta nhớ ngày xưa. Ngày Chúa ta sống thân phận chúng ta”. Lm. Thành Tâm đã phổ một bài thánh ca có những lời lẽ như thế. 

Mà, đúng vậy. Thánh Giu-se, sau những ngày tháng sống “tị nạn” bên Ai Cập, ngài đã về lại Israel. Về Israel, thánh Giu-se “đã lui về miền Ga-li-lê và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét” (Mt 2, 22).

Vì ở Ga-li-lê, thế nên gia đình của Đức Giê-su được mời dự tiệc cưới. Vâng, thánh Gio-an đã kể rằng: “Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su. Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự”.

Hôm ấy, mười hai ông môn đệ chắc hẳn ngồi vây quanh Đức Giê-su. Còn Đức Maria! Phải chăng, vì là phụ nữ nên Mẹ đã nhập vào nhóm phụ bếp!

(Đã có lúc người viết nghĩ như thế. Nghĩ như thế, vì phụ bếp dễ quan sát cái gì còn, cái gì thiếu. Mẹ chẳng phải là người phát giác ra việc thiếu rượu, đó sao!)

Vâng, Tin Mừng thánh Gio-an ghi rằng: “Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: Họ hết rượu rồi”.

Hết rượu! Nếu là chúng ta, chúng ta sẽ nói gì, làm gì? Phải chăng chúng ta sẽ hỏi gia chủ rằng: Ông đãi mấy “tăng” rồi! Sao tiệc chưa tàn mà đã hết rượu! Hay, chúng ta sẽ “móc” iphone ra, gọi tới lò rượu ông ABCD nào đó, kêu đem ngay đến nhà đám chục can rượu! Vâng, chỉ là lời bàn kiểu Mao Tôn Cương cho vui thôi! Sorry nha!

Đức Giê-su, hôm ấy, đã trả lời rằng: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.”

Có một số người “ghét” Công Giáo cho rằng Đức Giê-su nói như thế là nói hỗn. Bậy nà! Suy nghĩ như thế là lối suy nghĩ thiếu hiểu biết.

Theo “Nhóm Phiên Dịch CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ”, thì lời Đức Giê-su nói đã được quý ngài giải thích như sau: “Thưa bà: Đức Maria sẽ là Mẹ các tín hữu. Can gì đến: lối nói sê-mít để tỏ thái độ không muốn can thiệp.” (nguồn: sách Kinh Thánh Tân Ước trang 824)

Vậy đó! Chẳng có gì gọi là hỗn. Người Mỹ, người Quảng Đông nói chuyện với cha mẹ mình “I & You… Ngộ & Nị” gọi họ là hỗn sao!

Đức Giê-su không nói hỗn. Ngài “chưa” muốn can thiệp vì như Ngài nói “Giờ của tôi chưa đến”. Khi “giờ đến” Đức Giê-su sẽ can thiệp.

Và đây, “Giờ” của Đức Giê-su đã đến, sau khi “Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (x.Ga 2, 5).

Vâng, chúng ta cùng nghe thánh Gio-an tường thuật sự can thiệp của Đức Giê-su: “Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít. Đức Giê-su bảo họ: ‘Các anh đổ đầy nước vào chum đi’. Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: ‘Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc’. Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết).” (Ga 2, 6-9).

Ông quản tiệc không-biết-rượu-từ-đâu-ra. Thánh Gio-an kể tiếp: “Ông mới gọi tân lang lại và nói: ‘Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà say mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến bây giờ”.

Không thấy “tân lang” giải thích gì cả. Nếu là chúng ta, chúng ta sẽ giải thích làm sao? Phải chăng, chúng ta sẽ nói với ông quản tiệc: “Bố ơi! đừng đứng đó mà lầu bầu nữa. Thực khách đang chờ rượu kìa!”

Thực khách chắc chắn là chờ rượu. Và khi uống, họ sẽ ngạc nhiên như ông quản tiệc đã ngạc nhiên. Ngạc nhiên trước “dấu lạ” vô tiền khoáng hậu này.

Đây là một sự kiện có thật. Sự thật là “Có Chúa là có tất cả”. Thánh Gio-an là nhân chứng và ngài đã khẳng định: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người.”

***

Qua dấu lạ Đức Giê-su làm, thánh Gio-an cho biết, “Các môn đệ đã tin vào Người”.

Hôm nay, nghe lại câu chuyện này, câu chuyện “Tiệc cưới Cana”, chúng ta cũng “tin vào Người” chứ! Mà, cớ gì chúng ta không tin, khi chúng ta đã là một Ki-tô hữu!

Vâng, nếu đã tin… nếu đã tin… chúng ta có “mời” Đức Giê-su, mời cả “thân mẫu Đức Giê-su” đến thăm viếng, đến cư ngụ trong gia đình của chúng ta? Một cách riêng tư, chúng ta có mời Đức Giê-su, mời thân mẫu Ngài cư ngụ trong tâm hồn chúng ta?

Đôi tân hôn ở Cana miền Ga-li-lê, có phần chắc, chưa phải là Ki-tô hữu, thế mà, thân mẫu Đức Giê-su đã ngỏ lời với Ngài về nan đề mà đôi tân hôn đang gặp phải, và Đức Giê-su đã hóa giải nan đề cho đôi tân hôn.

Với chúng ta, đã là một Ki-tô hữu, là môn đệ của Đức Giê-su, có lẽ nào thân mẫu Ngài không ngỏ lời với Ngài khi gia đình chúng ta, cá nhân chúng ta, gặp phải một vấn đề nan giải nào đó! Có lẽ nào Đức Giê-su không “làm dấu lạ” để hóa giải những vấn đề nan giải của chúng ta!

Đức Maria, như chúng ta được biết, đã được Đức Giáo Hoàng Pio IX tuyên xưng là “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp”. Thế nên, đừng chần chừ gì nữa, hãy tìm đến Mẹ, “đưa thiệp mời Mẹ”, mời Mẹ thăm viếng gia đình chúng ta, mời Mẹ cư ngụ trong tâm hồn chúng ta.

Hôm nay, chúng ta có quá nhiều nan đề (quá nhiều không thể liệt kê ở đây) cần đến sự “Cứu Giúp” của Đức Maria. Chúng ta cần Mẹ “giúp” nói với con mình, rằng: “Giê-su ơi! đại dịch Covid 19 đã làm cho con cái của Mẹ ‘thiếu’ đủ thứ. Thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tình yêu thương”. Rằng: “Giê-su ơi! Lợi dụng đại dịch, con cái của Mẹ đang trở thành ‘tấm thớt’ để một số kẻ thiếu lương thiện tha hồ chặt chém.” v.v… và v.v…

Trong bữa-tiệc-cuộc-đời mỗi chúng ta, có phần chắc, nhiều thiếu thốn đang bủa vây chúng ta. Hãy tìm đến Mẹ, khấn nguyện Mẹ cứu giúp, khấn nguyện rằng: “Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin che chở mọi kẻ thuộc về con, ban ơn phù hộ cho Đức Thánh Cha, cho Hội Thánh, cho nước con, cho gia đình con, cho kẻ thân nghĩa, kẻ thù nghịch và hết kẻ khốn khó, sau hết cho các linh hồn trong luyện ngục.”

Với Đức Giê-su ư! Vâng, nằm mơ chúng ta cũng chẳng có cơ hội “đưa thiệp mời” Ngài. Tại sao? Thưa, là bởi, Ngài đã đứng bên ngoài ngôi nhà của mỗi chúng ta. Ngài đứng và nói: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (x.Kh 2, 20).

Xưa, đôi tân hôn ở Cana miền Ga-li-lê đã “dùng bữa” với Đức Giê-su, và Đức Giê-su đã “dùng bữa” với đôi tân hôn. Kết qua là “Đức Giê-su đã làm dấu lạ.” Ngài đã làm dấu lạ hóa giải những nan đề “suýt” làm cho đôi tân hôn mất mặt với thực khách, mắc cỡ với bà con lối xóm.

(Phong tục của người Do Thái, hết rượu trong tiệc cưới là một điềm gở, đôi tân hôn chắc chắn sẽ mất mặt với hàng xóm, láng giềng. Dưới lăng kiếng thần học, hết rượu trong tiệc cưới là một điềm xấu, ý muốn nói ngay cả Giavê Thiên Chúa cũng không chúc lành cho đôi tân hôn.)

Với chúng ta hôm nay, chắc hẳn ai cũng có rất nhiều vấn đề nan giải, những nan giải đè nặng lên thể xác lẫn tâm hồn của mỗi chúng ta.

Nếu có, hãy mở cửa, cánh cửa ngôi nhà gỗ đá, cũng như cánh cửa ngôi nhà tâm hồn của mỗi chúng ta. Mời Giê-su vào “dùng bữa”. Ngài sẽ vào như lời Ngài đã hứa “sẽ dùng bữa với người ấy”.

Vào dùng bữa với chúng ta, Đức Giê-su không đi với hai bàn tay trắng. Ngài sẽ mang đến cho chúng ta sự bình an, niềm hoan lạc, sự hy vọng và tình yêu thương. Đức Giê-su đã chẳng từng chúc lành: “Bình an cho anh em”. Và rằng: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”, đó sao!

Chưa hết… còn nữa. Đức Giê-su còn ban tặng cho chúng ta một chiếc bánh, đó là chính thân xác Ngài, điều đã được Ngài công bố trước các người môn đệ của mình, trong bữa tiệc, (lại là bữa tiệc), bữa tiệc ly, rằng: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” (x.Mt 26, 26).

Đó là một chiếc bánh, một chiếc bánh không thể thiếu trong “bữa tiệc cuộc đời” của mỗi chúng ta. Bởi vì chiếc bánh này, Đức Giê-su nói: “Ai ăn… sẽ được sống muôn đời” (x.Ga 6, 58).

Chỉ cần một cử động “mở cửa”, cánh của tâm hồn của chúng ta, với một lời nguyện cầu: “Lạy Chúa con chẳng đáng”. Đó chính là sự khởi đầu cho việc “Có Chúa - Bên Chúa” trong bữa tiệc cuộc đời của mỗi chúng ta.

Chúng ta cùng nghe lại đoạn ĐK của tác giả Hùng Cường nhé: “Có Chúa là có tất cả! Bên Ngài con no thỏa bình an.”

Có Chúa – Bên Ngài… tại sao lại không, nhỉ!

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...