Chúa Nhật XXXI – TN – B
Bạn
không còn xa Nước Thiên Chúa!
Hôm nay,
chúng ta bắt đầu bước vào tháng mười một. Và theo lịch Phụng vụ, thì, vào hai ngày đầu tháng, chúng ta có hai lễ quan trọng, đó là: lễ kính trọng thể các
thánh Nam Nữ và lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời.
Trước hết, nói về “lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời”. Thánh lễ
này cầu cho họ, vì họ là “Những tín hữu đã chết trong ơn nghĩa Chúa nhưng chưa
sạch hết mọi tội và chưa đền tội bằng những hình phạt tạm thời này thì không thể
vào thẳng Thiên Đàng được, chưa xứng đáng hưởng nhan thánh Chúa nên họ phải chờ
đợi thanh luyện xong mới vào Thiên Đàng.
Công đồng Floren đã định tín: có luyện
ngục để thanh luyện các linh hồn. Các linh hồn ra khỏi trần gian không còn có
thể làm được việc gì lành để cứu mình nên chỉ trông cậy vào những người còn sống
lập công cầu nguyện cho mình, để rút ngắn thời gian thanh luyện.
Vì thế mà Giáo
hội kêu gọi tín hữu cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội. Đặc biệt là việc
dâng thánh lễ, dành tháng mười một (hằng
năm) cầu nguyện cho họ” (nguồn: internet).
Thế còn “lễ kính trọng thể các thánh Nam Nữ”! Thưa,
đây là một thánh lễ nói lên niềm vui mừng của Giáo Hội, một niềm vui về những
người con của Giáo Hội, sau khi chết đã được hưởng vinh quang, vinh quang trên
Thiên Quốc.
Có lẽ, không ít người trong chúng ta sẽ tự hỏi rằng:
các thánh nam nữ đã sống như thế nào mà lại được hưởng vinh quang Thiên Quốc!
Thưa, bình thường thôi. Các ngài đã sống một đời sống
đúng như lời Đức Giê-su truyền dạy, đó là: Mến Chúa và Yêu người. “Phải yêu mến
Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi (và) phải
yêu người thân cận như chính mình”.
Chính Đức Giê-su, trong một lần gặp gỡ một vị kinh
sư, đã nói như thế. Và, thật phải đạo khi hôm nay chúng ta cùng đọc lại sự kiện
này, đọc để nghe lại lời Đức Giê-su đã truyền dạy, hầu đem ra thực hiện trong đời
sống đức tin của mình. Sự kiện này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Mác-cô.
** Theo thánh
Mác-cô, chuyện kể rằng: “Có một người trong kinh sư đã nghe Đức Giê-su và những
người thuộc nhóm Sa-đốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giê-su đối đáp hay, ông đến
gần Người và hỏi…”
Ông ta hỏi gì? Thưa, ông hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi
điều răn, điều răn nào đứng đầu?”
Trời ạ! Hỏi gì không hỏi, lại đi hỏi “điều răn nào đứng
đầu?” Phải chăng ông muốn “trêu ngươi” Đức Giê-su?
Do Thái giáo có 613 điều răn. Trong 613 điều răn đó,
có 365 điều răn tiêu cực và 248 điều răn
tích cực. “Các điều răn tiêu cực được áp dụng theo nguyên tắc hy sinh yehareg
ve'al ya'avor, nghĩa là "thà chết chứ không vi phạm", thuộc về ba
thể loại là giết người, thờ ngẫu tượng, và các hành vi tình dục bị cấm.” (nguồn:
Wikipedia).
Vậy thì điều gì đứng đầu! Vâng, quả là một câu hỏi đầy
thách thức. Tuy nhiên, với Đức Giê-su, Ngài không xem đó như là một sự thách thức,
trái lại Ngài đã có một câu trả lời, một câu trả lời, không một người Do Thái
nào, khi nghe, mà không biết đến.
Hôm ấy, Đức
Giê-su trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên
Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của
ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”.
“Nghe đây, hỡi Israel…” rất truyền cảm, Đức Giê-su
nói tiếp: “Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.
Và, sau đó, Ngài kết luận: “Chẳng có điều
răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”.
Anh chàng kinh sư nghĩ thế nào về câu trả lời của Đức
Giê-su?
Thưa, là một kinh sư, tất nhiên anh ta biết điều luật này. Hôm ấy, anh
ta đáp lời rằng: “Thưa Thầy hay lắm. Thầy nói rất đúng”.
Tiếp đến anh ta nói với sự hiểu biết của mình, rằng: “Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra
không có Đấng nào khác. Yêu mến Đức Chúa
Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi và yêu người
thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”.
Vâng, “quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. Chàng
kinh sư, quả là rất am hiểu lề luật. Sách Xuất
Hành xác định rằng, người ta không thể sống Lề Luật của Thiên Chúa mà lại đối xử
sai trái với những người đang được hưởng
sự bảo vệ của Người.
Ai… ai là những người được hưởng sự
bảo vệ này? Thưa, đó là: những người góa phụ, cô nhi, người khách lạ, người nhập
cư, nói tắt một lời, là những người cô
đơn, thấp cổ bé miệng.(x. Xh 22, 20-21).
Hôm ấy, nhìn thấy sự khôn ngoan của
anh kinh sư, Đức Giê-su nói: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu”.
*** Như đã nói ở trên, chàng kinh sư khen Đức
Giê-su “nói đúng lắm”. Mà, sao không đúng cho được, trong những giới luật của
luật Do Thái, giới răn quan trọng nhất là “Thập Giới”. Và, chính Thiên Chúa đã
trực tiếp thông truyền cho ông Mô-sê trên núi Sinai.
Hôm nay, Thiên Chúa, qua Con của
Người là Đức Giê-su, Thập Giới đã được tóm lại thành “hai điều”, chỉ là hai điều thôi, đó là “Mến Chúa và Yêu
người”. Thế nhưng, nếu được thực thi với
một tâm tình “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực”,
thì kể như người ấy “không còn xa Nước Thiên Chúa”.
Nhắc lại điều này để làm gì? Thưa, để chúng ta hiểu
rằng, muốn được hưởng vinh quang trên Thiên Quốc, như các thánh nam nữ mà hôm
nay chúng ta kính nhớ, thì chúng ta cũng
phải thực thi trọn hảo những giới luật (nêu trên) đã được Đức Giê-su tuyên bố.
Đừng bao giờ có tư tưởng chủ bại mà nghĩ rằng, các
thánh là “thánh” nên họ có thể thực thi trọn hảo giới răn Chúa truyền dạy, còn
chúng ta chỉ là phàm nhân đầy tội lỗi, nên thật khó để mà thực thi.
Hãy nhớ rằng: “Chẳng vị thánh nào không có một quá
khứ, cũng chẳng tội nhân nào không có một tương lai”.
Đây! Chúng ta hãy nhìn Augustinô như một ví dụ điển
hình. Quá khứ là một tội nhân. Thế nhưng, tương lai của vị tội nhân này đã được
nhiều thế hệ ca ngợi.
Người ta ca ngợi ông ta điều gì? Thưa, lời ca ngợi
được gói gọn trong lời nhận định sau đây: “Nếu trước kia Augustinô là người lớn
lên trong tội, sống trong tội, vương vấn tội lụy trần ai, thì giờ đây ngài là một
con người tốt lành thánh thiện. Ngài yêu mến Thiên Chúa đến say mê, đến nỗi khi
cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình, ngài đã thốt lên:
“Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng!”; và “Lạy Chúa, Chúa dựng nên
con cho Chúa, linh hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa ”.
Song song với việc yêu mến Chúa, ngài còn yêu con người đến mức anh hùng.
Vì thế, ngay sau khi mẹ ngài qua đời, ngài trở về Carthage và bán hết tài sản để
cho người nghèo”. (nguồn: internet)
Là kitô hữu lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36 tuổi,
được tấn phong giám mục lúc 41 tuổi, cuộc đời của Augustino có thể gồm tóm
trong một câu: “Một
tội nhân trở thành thánh nhân”. Thành thánh nhân, bởi ngài đã thực thi trọn hảo
giới luật “Mến Chúa – Yêu người”.
Thế nên, một lần nữa chúng ta hãy nghe lại những giới
luật được xem là “quan trọng nhất” đã được Đức Giê-su công bố: “Nghe đây, hỡi Israel: Đức Chúa, Thiên Chúa
chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của
ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”. Và, “Ngươi
phải yêu người thân cận như chính mình”.
Và, hôm nay, đừng quên rằng, giáo lý Công Giáo cũng
dạy chúng ta rằng “Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà chớ: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi
sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.
Những yêu cầu mà Thiên Chúa đề ra không là điều phức
tạp. Tất cả chỉ là ba chữ “tình yêu thương”.
Đó là cách biểu lộ “đức tin thật”, tất nhiên là phải qua hành động, qua
hành động như lời thánh Gio-an tông đồ khuyên dạy: “Hỡi anh em là những người
con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu
thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3, 18)
Mở đầu cho một bài giảng trong thánh lễ “Ngày quốc tế
cho người nghèo”, ĐTC Phan-xi-cô có nói:
“Trước con mắt trần gian người nghèo ít có giá trị, nhưng họ lại là những người
mở ra cho chúng ta con đường về trời, họ là thông hành vào thiên đàng của chúng
ta….”.
Hôm nay, trước sự kiện Đức Giê-su nói đến hai giới
luật (nêu trên) quan trọng nhất, nên chăng, chúng ta cũng nói: “Mến Chúa vàYêu
người chính là thông hành vào Nước Thiên Chúa”!
Chắc chắn là vậy, bởi vì, chỉ khi ta thực thi trọn vẹn
giới luật “yêu thương”, một giới luật đã
được Đức Giê-su truyền dạy trong bữa tiệc ly, rằng: “Thầy ban cho anh em một điều
răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em
là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”…
Vâng, chỉ khi đó Đức Giê-su mới có thể nói với chúng
ta, rằng: “Bạn không còn xa Nước Thiên Chúa”.
Petrus.tran
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét