Hãy ký thác đường đời cho Chúa…
Người xưa thường
nói: “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Thế nhưng, đôi khi, vì một hoàn cảnh nào
đó, có người, trong suốt cuộc đời của mình, để mưu sinh, họ đã phải làm rất
nhiều nghề khác nhau. Và tôi là một ví dụ điển hình.
Vâng, cuối năm
1972, vì muốn có tiền để phụ thêm cho việc đóng học phí, tôi xin vào làm việc
trong một ấn quán. Nói là làm việc, nhưng thực tế là học nghề. Bài học đầu tiên
tôi phải học, đó là học thuộc lòng các ô chữ. Khi thuộc lòng các ô chữ, tôi được
dạy cách xếp chữ. Chưa tới ba buổi học, tôi đã có thể xếp chữ thành thạo, tuy
có hơi chậm. Học nghề này không khó lắm, với trình độ trung học đệ nhất cấp,
lúc đó, tôi đủ sức để học kẻ táp-lô, mi bài hoặc lên khuôn bài, sửa morát.
Sau một tháng học
nghề và tập sự, tôi trở thành thợ và dĩ nhiên, được lãnh lương. Tôi đã làm nghề
này được ba năm thì… hỡi ơi! biến cố 30.04.1975 xảy ra, chính quyền mới (thời
đó) không hoan nghênh tư nhân hành nghề ấn loát. Thế là thầy trò chúng tôi cuốn
tượng, chỉ còn nước về quê cắm câu.
Tôi không có quê
để về cắm câu, tôi cắm câu ngoài lề đường… bằng một ống bơm và một cái bàn vá
ép. Tôi bơm vá xe đạp. Đó cũng là nghề thứ hai của tôi.
Làm nghề bơm vá xe
đạp được nửa năm, thấy trong xóm nhà nhà đạp xích lô, người người đạp xích lô,
cũng dễ kiếm ăn, tôi theo nghề này.
Thật vậy, với nghề
này, có sức khỏe, kiên nhẫn và may mắn, chỉ cần nửa ngày đạp thì trong túi cũng
rủng rỉnh được năm, sáu đồng bạc. Lúc đó, một ký gạo (giá chợ đen) là năm mươi
xu, với thu nhập năm, sáu đồng quả là lớn biết chừng nào.
Thế nhưng, “đoạn
trường ai có qua cầu mới hay”. Vâng, “dễ kiếm ăn” nhưng không phải lúc nào cũng là như thế.
Mười ba năm đạp xích lô, dễ kiếm ăn thật, nhưng có những ngày, mỗi khi nhớ lại,
tôi không khỏi rùng mình…
Có những ngày, bốn
giờ đêm, đánh xe ra đầu ngõ, làm một “cái đen” nóng cho tỉnh ngủ, rồi bắt đầu
“cuốc… cuốc… cuốc”. Đạp tới đạp lui, đạp xuôi đạp ngược chằng thấy ai kêu. Bắt
đầu “đề-pa” từ Cống Bà Xếp, đạp xuống ngã ba Ông Tạ, vòng qua Lăng Cha Cả, đánh
một cua xuống nhà thờ Kỳ Đồng… tám giờ sáng, rồi chín giờ, dáo dác nhìn dòng
người ngược xuôi, vẫn không thấy ai gọi “xích lô”. Chân tay bắt đầu bủn rủn,
đói… khát… chưa chạy cuốc nào, tiền đâu mà ăn sáng!
Tôi “tấp” xe vào
hang đá Đức Mẹ trong nhà thờ Kỳ Đồng, nhìn Mẹ, tôi chợt nhớ tới bài ca “Kìa
Ai!”.
Kìa ai… “Ai” đó
phải chăng là tôi… là tôi đang trên chiếc xích lô “Dong duỗi đường gió bụi” với
biết bao “Gánh sầu thương mệt mỏi hai vai”…
Vâng, từ giác
khuya cho tới chín giờ sáng, quả là đôi vai tôi quá mệt mỏi. Tôi đạp xe về nhà,
cái bụng tôi “nhao nhao lên vì đói…” Coi như hôm nay “lốc”. Lốc… đó là tiếng
lóng của giới phu đạp xích lô, một cách nói để diễn tả tình trạng ế ẩm không
kiếm được cuốc xe nào.
**
Nhắc tới chuyện “có
những ngày, mỗi khi nhớ lại, tôi không khỏi rùng mình” để làm gì? Xin thưa, là
bởi, nó gợi cho tôi nhớ đến một câu chuyện trong Phúc Âm thánh Luca (5, 1-11),
câu chuyện nói về cuộc hải hành đánh bắt cá của ông Simon cùng các bạn của ông
ta. Simon và các bạn của ông ta, đêm đó, đã làm việc hết sức có thể, quăng lưới
suốt cả đêm, thế nhưng chỉ là công cốc, “lốc”… giống-như-tôi!
***
Vâng, câu chuyện
đó được kể lại rằng, hôm đó, khi vầng thái dương xuất hiện ở phương đông, mọi
cảnh vật vươn mình trong ánh sáng, từng đoàn thuyền đánh cá nối tiếp nhau kéo
về neo đậu bên hồ Ghen-ne-xa-ret sau một đêm vật lộn với sóng gió để mưu sinh,
thì ở bờ hồ người ta thấy Đức Giêsu đang đứng ở đó.
Sự xuất hiện của
Đức Giêsu lập tức được loan đi rất nhanh, nhanh đến độ chẳng mấy chốc người ta
thấy dân chúng đã phải chen lấn nhau mới có thể đến gần Ngài.
Dân chúng đến với
Đức Giêsu với mục đích gì? Xin thưa, là để “nghe lời Thiên Chúa”.
Hôm đó, họ đến rất
đông, đông đến nỗi Đức Giêsu đã phải “xuống một chiếc thuyền” và Ngài đã nói
ông Simon, chủ nhân chiếc thuyền đó, “chèo thuyền ra xa bờ một chút” như một
cách để tái lập lại cảnh chen lấn mất trật tự.
Con thuyền của ông
Simon lập tức trở thành “tòa giảng”, trên tòa giảng, Đức Giêsu giảng dạy đám
đông. Đức Giêsu không chỉ giảng dạy, bởi nếu chỉ giảng dạy thì Ngài cũng không
khá hơn mấy ông kẹ Pharisiêu, là những kẻ chỉ giảng nhưng không làm.
Thật vậy, tiếng
đồn về một Giêsu với những lời giảng dạy như
“Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” hôm nay đã được chứng
thực, rằng, Ngài thật sự là Đấng có thẩm quyền qua một phép lạ vô tiền khoáng
hâu, một phép lạ đã khiến cho “tất cả mọi người có mặt ở đó đều kinh ngạc” (Lc
5, 9). Phép lạ về một mẻ-cá-lạ-lùng…
Vâng, hôm đó, sau
khi giảng xong, Đức Giêsu nói với ông Simon “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới
bắt cá” (Lc 5, 4)
Chèo ra chỗ nước sâu!
Ôi! Trời ạ! Cả một biển hồ, chỗ-nước-sâu là chỗ nào? Giêsu, một tay thợ mộc lại
rành “ngư trường” hơn tay ngư phủ lão làng Simon sao!
Suốt cả đêm, một
thời điểm rất thuận lợi cho việc đánh bắt cá, thế mà các ông vẫn “không bắt
được gì cả”, giờ đây, sáng bảnh mắt rồi lại bảo ra khơi thì có nghịch lý không
kia chứ!
Thế nhưng, ngư phủ
Simon lại “vâng lời” anh thợ mộc Giêsu. Tại sao ư! Thưa rằng, là bởi Simon nhìn
ra Đức Giêsu là một bậc Thầy, không phải là một loại “thầy dạy nghề” nhưng là
bậc Thầy của quyền năng.
Chính mắt Simon
chứng kiến anh thợ mộc Giêsu, chỉ một lời “ra lệnh” thế mà “bà mẹ vợ” của ông
ta “đang bị sốt nặng” bỗng nhiên “cơn sốt biến mất” (Lc 4, 38-39).
Cho nên, hôm nay,
mệt thì có mệt đấy, nhưng thi hành lời “ra
lệnh” của Thầy Giêsu, một lần thôi, thì đã có sao!
Thế là họ ra khơi.
Và phép lạ đã xảy ra.. Câu chuyện được kể lại rằng, “họ bắt được rất nhiều cá,
đến nỗi hầu như rách cả lưới” (Lc 5, 6).
****
Điều gì đã khiến
cho ông Simon tìm được “chỗ nước sâu” trong một biển hồ rộng mênh mông bể sở
như thế? Phải chăng, ông ta đã sử dụng một
tấm hải đồ mang tên “Hãy ký thác”?
Vâng, nhìn qua cử
chỉ của Simon, sau khi ông thấy được phép lạ tỏ tường, ông liền “sấp mặt dưới
chân Đức Giêsu” thú nhận tội lỗi, ông ta
còn thay đổi cách gọi Đức Giêsu từ “Thầy” qua “Lạy Chúa”, chúng ta có thể tin rằng, đúng là ông Simon
cùng với các bạn chài của ông ta đã sở hữu tấm hải đồ mang tên “Hãy ký thác” và
các ông đã mang ra sử dụng, để rồi các ông đã nhận ra Thầy Giêsu chính là người
mà các ông cần “bỏ hết mọi sự mà theo Người”.
*****
Có người đã ví
rằng “Cuộc đời mình như chiếc thuyền nan”.
Đúng vậy, cuộc đời
của chúng ta, quả đúng là một con thuyền và con thuyền cuộc đời của chúng ta
không phải lúc nào cũng trôi đi một cách bình thản như ý muốn.
Có những lúc, con
thuyền cuộc đời của chúng ta phải đương đầu với bão táp của sự suy thoái kinh
tế dẫn đến thất nghiệp để rồi chán nản. Có những lúc, con thuyền cuộc đời của
chúng ta phải đối diện với những cơn sóng thần bệnh tật để rồi dẫn đến sự tuyệt
vọng.
Có những lúc, con thuyền cuộc đời của chúng ta phải chống
chỏi những trận cuồng phong của mất mát, chia ly v.v.. để rồi chúng ta cứ phải
“nhớ nhớ buồn buồn với chán chường”
Có những lúc, con
thuyền cuộc đời của chúng ta cảm thấy trống vắng, một tâm hồn trống vắng, để
rồi chúng ta phải tự hỏi: Tại sao tôi không có sự bình an! Tại sao tôi luôn
phải bất an?
Vâng, phải chăng,
con thuyền cuộc đời của chúng ta thiếu một tấm “hải đồ”?
Phải chăng, trên
con thuyền lữ thứ trần gian, chúng ta quên hẳn lời dặn dò của Thầy Giêsu rằng,
“Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc.
Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy
xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không tích thu vào kho: thế mà Cha
anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em chẳng quý giá hơn sao?... Hãy ngắm xem
hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng,
không kéo sợi, thế mà Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salomôn, dù vinh
hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy…”
Chúa Giêsu, trong
những lần ra đi rao giảng Tin Mừng, Ngài đã nói, “Hỡi những ai mệt mỏi và gánh
nặng, Hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
“Hãy đến cùng Ta”.
Thật vậy, chính Chúa Giêsu, Ngài sẽ là người trao cho chúng ta tấm hải đồ, một
tấm hải đồ được gói ghém bằng một lệnh truyền giản dị, rằng: “Trước hết, hãy
tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia,
Người sẽ thêm cho.” (x. Mt 6, 25-34)
Là một Kitô hữu, chúng
ta đã đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, chúng ta sẵn sàng sử dụng tấm hải đồ của
Ngài cho cuộc lữ thứ trần gian của chúng?
Nếu chúng ta tin
và nếu chúng ta sử dụng… Vâng, hãy cùng một tâm tình như vua David xưa mà “ký
thác đường đời cho Chúa”.
Petrus.tran
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét